Trăng thu
04/07/2015 | Lượt xem: 5678
Hôm nay là ngày mười bốn tháng tám, gần tới ngày rằm Trung thu, mà Trung thu thì mọi người thường nói về trăng. Trong nhà Phật cũng thường dùng vầng trăng để nói lên đạo lý theo hai chiều, chiều thuận và chiều nghịch.
Nói về vầng trăng theo chiều thuận nghĩa là sao? Là dùng vầng trăng để chỉ cho ánh trăng chân thật nơi mỗi người, còn chiều nghịch là quên đi vầng trăng nơi chính mình mà theo ánh trăng bên ngoài. Hôm nay nhân ngày Trung thu, chúng ta cùng nhau xem lại từ chư Phật đến các vị tổ sư và các bậc cổ đức đã dùng vầng trăng để nói lên đạo lý như thế nào, và chúng ta nên vui với vầng trăng nào thì tốt. Cho nên đề tài nói chuyện với quý Phật tử hôm nay là “Trăng thu”.
1/ HÀNH VI THIỆN ÁC CỦA MỖI NGƯỜI VỚI VẦNG TRĂNG
Trong   Kinh A Hàm, Đức Phật dạy: “Người làm thiện cũng giống như mặt trăng,   người làm ác cũng giống như mặt trăng”. Tại sao vậy? Bởi vì người làm   thiện giống như mặt trăng từ mùng một đến rằm, ngày càng sáng tỏ thêm   lên, còn người làm ác cũng giống như mặt trăng, nhưng từ ngày rằm đến   đêm ba mươi, ngày càng khuất lụi dần vào bóng tối.
Tất cả chúng ta,   hễ ai được sanh ra đời, mang thân người tức là đều có phước phần nhất   định, giống như một mặt trăng đang sáng với phước đức tương ứng mà mình   có được. Nhưng nếu chúng ta không biết nương phước đức đó để vun bồi   thêm, làm cho căn lành ngày càng tăng trưởng mà ngược lại, tạo thêm bao   nhiêu nghiệp không tốt, cô phụ phước đức mà mình hiện có để rồi phải   chịu trầm luân đi xuống thì hạng người này cũng giống như mặt trăng từ   ngày rằm đến đêm ba mươi, lụi dần vào bóng tối. Như vậy thật đáng buồn.   Còn những người khi mang thân người, biết nương mặt trăng đang sáng của   mình để tiếp tục tu tập trong đời sống hằng ngày, làm cho phước lành  của  mình ngày càng tăng trưởng, giống như mặt trăng từ mùng một đến  ngày  rằm, ngày càng sáng tỏ hơn.
Tương tự, trong Kinh A Hàm, Đức Phật cũng chỉ rõ bốn hạng người ở thế gian:
Hạng thứ nhất là từ tối vào tối.
Hạng thứ hai là từ tối đến sáng.
Hạng thứ ba là từ sáng vào tối.
Hạng thứ tư là từ sáng đến sáng.
Hạng   thứ nhất là người thiếu phước, sanh ra đời trong một gia đình thiếu   thốn, không có đủ tiện nghi, tức là sanh ở chỗ tối. Người đó lại không   biết đến Phật pháp, không biết làm lành, tu tạo phước đức mà lại tạo   thêm các nghiệp ác cho nên ngày càng đi xuống và lẩn vào bóng tối, cho   nên từ chỗ sanh ra đã tối tăm lại tiếp tục đi vào chỗ tối tăm. 
Hạng   thứ hai, cũng là người sanh ra trong một gia đình không đầy đủ các điều   kiện tốt, nhưng biết rằng mình sanh ra phải chịu cảnh thiếu thốn thế  này  là do chính mình ngày xưa thiếu công đức tu hành, không biết tạo  phước.  Vì biết như vậy nên an phận với những gì mình đang có được, đồng  thời  tiến lên bằng cách học hiểu Phật pháp, tu tạo phước lành, giúp  ích cho  mọi người, làm cho phước đức của mình ngày càng tăng trưởng, để  ngay  hiện đời có được một cuộc sống tươi sáng, đời sau mình sẽ được  tốt đẹp  hơn. Như vậy thì tuy rằng đời nay coi như sanh ra trong chỗ tối  nhưng sẽ  tiến dần đến chỗ sáng.
Hạng thứ ba, là người sanh ra trong  chỗ đầy  đủ tiện nghi, nhưng do không đủ duyên để biết Phật pháp, không  biết làm  lành mà ngược lại còn tạo ác, cho nên tuy rằng ngày hôm nay  có phước  phần, nhưng ngày sau sẽ rơi vào chỗ xấu xa do nghiệp ác đời  này tạo.  Hạng người này được xem như từ chỗ sáng vào chỗ tối, giống như  mặt trăng  từ rằm dần tới đêm ba mươi.
Hạng thứ tư, là người sanh ra  trong chỗ  đầy đủ tiện nghi, có văn hóa, lại được gặp Phật pháp, biết  tu tạo và  tăng trưởng phước lành để đời sau càng thăng tiến hơn nữa. Đó  chính là ở  chỗ sáng mà tiếp tục đi vào chỗ sáng hơn.
Ngày nay,  chúng ta hội đủ  duyên lành được làm người, tức là mình đang ở chỗ sáng.  Đang ở chỗ sáng  rồi, mình phải đặt câu hỏi là ngày mai mình sẽ đi đến  chỗ tối hơn hay  sáng hơn đời này? Chắc không ai dại gì đi vào chỗ tối,  phải không? Vậy  phải làm cách nào để đi đến chỗ sáng hơn? Nếu muốn đời  sau sáng hơn đời  này thì không gì hơn là chúng ta phải học hiểu Phật  pháp, khéo tu tập  pháp lành theo lời Phật dạy, thì khi thân hoại mạng  chung, nhất định  mình sẽ đi trên con đường lành theo phước đức mình đã  tạo, như vậy mới  xứng đáng là mặt trăng từ mùng một đến ngày rằm. 
2/ DƯỚI ÁNH TRĂNG THU
Giờ quý Thầy sẽ kể cho quý vị nghe câu chuyện về hai người bạn là huynh đệ cùng tu hành đã khuyên nhau dưới ánh trăng thu.
Xưa   kia An Lộc Sơn vây hãm Đông thành, ông Lý Đăng bị cầm giữ cho đến  chết.  Lý Đăng có người con là Lý Nguyên, nhân thấy cha bị bắt và cầm  giữ cho  đến chết nên phẫn chí, tự thề không làm quan, không lấy vợ,  không ăn  thịt cá và bỏ nhà vào chùa Huệ Lâm. Ở trong chùa có một vị  tăng là Viên  Trạch. Vị Tăng này kết bạn với Ngài Lý Nguyên rất thân và  cùng rủ nhau  đi dạo Nga Mi Sơn. Ngài Lý Nguyên muốn đi đường Kinh Châu  qua sông Tố  lên đường núi, còn ngài Viên Trạch thì muốn đi theo đường  Tà Cốc, Trường  An (tức Kinh Sư, kinh đô của đời nhà Đường). Ngài Lý  Nguyên vì thề  không làm quan nên không muốn đi theo đường Kinh sư nên  nói: “Tôi đã dứt  việc đời, há trở lại đường Kinh sư hay sao?”. Bấy giờ  ngài Viên Trạch  làm thinh giây lâu, rồi mới nói: “Đi đứng cố nhiên  chẳng do ý người”, do  đó chiều theo ý ngài Lý Nguyên, đi theo đường  Kinh Châu. Khi thuyền đến  Nam Phổ, thấy có một người đàn bà mặc quần  gấm đang múc nước, khi ấy  ngài Viên Trạch giật mình, khóc và chỉ người  đàn bà nói: “Tôi sở dĩ  không muốn đi đường này là vì bà ta”. Ngài Lý  Nguyên nghe vậy cũng giật  mình không hiểu chuyện gì, hỏi nguyên do.  Ngài Viên Trạch nói: “Bà này  họ Vương, tôi sẽ làm con của bà, bà mang  thai đã ba năm, vì tôi không  đến nên không sanh được. Nay đã thấy rồi  thì không còn trốn thoát được  nữa. Ông nên dùng phù chú nguyện giúp tôi  sanh ra mau, ba ngày sau, khi  tắm đứa bé, mong ông đến với tôi, tôi sẽ  cười để làm tin cho ông biết.  Sau mười ba năm, dưới ánh trăng thu,  phía ngoài chùa Thiên Trúc ở Hàng  Châu sẽ cùng ông tương kiến. Tôi đã  ba đời làm Tỳ-kheo tu thiền ở sông  Tương, phía Tây chùa Nhạc Lộc, có  một hòn đá to, tôi thường tọa thiền  trên đó”. Nghe ngài Viên Trạch nhắc  lại kiếp trước của mình như vậy và  giờ phải thác sanh như vậy, ngài Lý  Nguyên rất hối hận, vì người bạn đã  theo ý mình đi con đường mình  quyết định mà bị thác sanh vào người đàn  bà này, nay nhân duyên tới  đành phải xa cách bạn, song không khỏi xót  xa, ngậm ngùi. Đến chiều,  ngài Viên Trạch chết. Người đàn bà sanh được  ba ngày, ngài Lý Nguyên  đến thì quả nhiên, đứa bé nhìn ngài Lý Nguyên và  cười. Sau mười ba năm,  đến kỳ hẹn, vào đêm trung thu, ngài Lý Nguyên  tìm đến chỗ hẹn và chỉ  nghe bên bờ sông Cát Hằng có một chú bé mục đồng  gõ sừng trâu mà ca  rằng:
Tam sanh thạch thượng cựu tinh hồn,
Thưởng nguyệt, ngâm phong bất yếu luận.
Tàm quý tình nhân viễn tương phỏng,
Thử thân tuy dị tánh thường tồn.
Nghĩa là:
Ba đời trên đá linh hồn cũ,
Hưởng trăng với gió chẳng cần bàn.
Hổ thẹn tình người xa đến viếng,
Thân này tuy khác tánh còn nguyên.
Có   nghĩa là đã ba đời Ngài tu thiền trên đá ở phía Tây chùa Nhạc Lộc, bao   nhiêu thú vui trăng gió của ngày xưa, hôm nay không còn là việc để  nhắc  đến. Nhưng gặp nhau trong khoảnh khắc này thì:
Hổ thẹn tình người xa đến viếng
Thân này tuy khác tánh còn nguyên.
Trong   vòng luân hồi đã từng gặp nhau, đã từng tu hành với nhau, nay bạn đến   đây thăm tôi, nhưng thân đã đổi khác rồi. Tuy thân đã đổi khác, nhưng   tâm vẫn nhớ, bản tánh kia chưa từng đổi bởi tử sanh, nên tánh vẫn còn   nguyên. 
Ngài Lý Nguyên nghe vậy, bèn gọi: “Trạch công, ông có mạnh không?”.
Ngài   Viên Trạch nói: “Chân tín sĩ Lý Công! Ông duyên tục chưa hết, cẩn thận   chớ gần nhau, chỉ chuyên cần tu thì chẳng đọa, rồi sẽ gặp nhau nữa”.
Ngài Viên Trạch mới ca tiếp:
Thân tiền thân hậu sự mang mang,
Dục thoại nhân duyên khủng đoạn trường.
Ngô Việt sơn xuyên tầm dĩ biến,
Khước hồi yên trạo thướng Cù Đường.
Nghĩa là:
Thân trước thân sau sự mịt mùng,
Muốn nói nhân duyên sợ điếng lòng.
Ngô Việt núi sông tìm đã khắp,
Khua chèo trở lại đến Cù Đường.
“Thân   trước thân sau sự mịt mùng”, khi mình bỏ thân này sang đời sau, mình   đâu có nhớ được thân trước mình như thế nào. Nhân duyên ngày xưa mình đã   sống với mọi người, đã thân với ai, đã cùng nhau tu hành như thế nào,   mình đâu có biết được?
“Muốn nói nhân duyên sợ điếng lòng”, Ngài  Viên  Trạch muốn nhắc lại những nhân duyên xưa kia đã từng sống với  nhau,  cùng nhau tu hành thanh thoát như vậy, nhưng hôm nay không còn  được diện  kiến nữa. Nhưng sợ Ngài Lý Nguyên nghe được thì hai bên sẽ  rất đau  lòng.
“Ngô Việt núi sông tìm đã khắp, Khua chèo trở lại đến  Cù  Đường”. Quanh quẩn trong vòng sanh tử luân hồi đã nhiều kiếp, tìm  nhau  cũng đã khắp chốn cùng đường, hôm nay vừa được gặp lại nhau thì  lại vội  ly biệt, nhưng vẫn còn một chốn yên bình, đến trong ấy sẽ được  gặp nhau  mãi mãi: “Chuyên tu thì chẳng đọa, rồi sẽ gặp nhau nữa”.
Sau  khi đọc  bài kệ xong, Ngài Viên Trạch ẩn mất và không còn thấy nữa.  Ngài Lý  Nguyên trở lại chùa sống hơn ba mươi năm và chết lúc tám mươi  tuổi.
Ngày  nay chúng ta được sanh ra làm người, đã có duyên lành gặp  Phật pháp rồi  thì mình phải cố gắng khắc tâm tu hành, tu hành sao cho  đúng như lời  ngài Viên Trạch đã khuyên ngài Lý Nguyên, để làm sao mỗi  một đời, duyên  tục của mình được gột bớt dần, chứ không có quyền dày  thêm. Nếu như tất  cả quý vị ngồi trong pháp hội này, ngày hôm nay mỗi  người đều cố gắng tự  gột bớt duyên tục thì ngày sau chúng ta sẽ tiếp  tục gặp nhau giống như  trong pháp hội này nữa, nhưng sẽ thanh thoát  hơn, nhẹ nhàng hơn, vui  tươi hơn, an ổn hơn. Duyên tục được gột bớt thì  vầng trăng mình càng  sáng tỏ, như ánh trăng từ mùng một đến ngày mười  lăm, không bị các mây  trần làm lu mờ.
3/ KHỔ ĐAU SANH TỬ LÂU DÀI
Tất  cả chúng ta đã lăn  lộn trong vòng luân hồi sinh tử này rất nhiều kiếp  rồi, nhưng có ai biết  được không? Mỗi một đời như vậy mà mình không  khéo giác thì càng luân  hồi. Càng lăn lộn trong bụi trần đó bao lâu thì  càng tô bồi thêm duyên  tục, vầng trăng trí tuệ nơi mình càng bị lu mờ  bấy nhiêu. Đó là gốc, là  nguyên nhân kéo theo bao nỗi khổ khác trong  cuộc đời. Cho nên muốn hết  khổ, muốn tiến lên thì không gì hơn là chúng  ta phải bắt chước, học theo  hạng người thứ hai và thứ tư, giống như  mặt trăng từ mùng một đến ngày  rằm.
Quý Thầy sẽ kể một câu chuyện để  thấy mình đã trải qua vòng luân  hồi dài và nhiều như thế nào. Trong  Thích Môn Tự Cảnh Lục, có ghi lại  câu chuyện của một vị Thánh Đạt-ma  Mật-đa làm tăng đốt lò và chụm bếp.
Sau  khi Đức Phật diệt độ, trong  ngọn núi của xứ Kế Tân có bậc Thánh Tỳ kheo  tên Đạt-ma Mật-đa tài huệ  hơn người, tọa thiền bậc nhất. Chỗ Ngài  Đạt-ma Mật-đa ở có ba lớp hang.  Bấy giờ có hai vị tăng từ xa nghe tiếng  tăm nên đi đến lễ bái, thấy  tôn giả mặc y cũ kỹ xấu xí ở trước lò của  tầng hang thấp nhất, vì muốn  điều phục thân tâm mình mà làm vị tăng chụm  lửa, đốt lò.
Khi ấy hai vị tăng hỏi: Trưởng lão Đạt-ma Mật-đa đang ở đâu?
Ngài đáp: Ở trong phòng của tầng hang trên kia.
Hai vị tăng liền đi lên tìm. Tôn giả dùng sức thần túc phút chốc trở về phòng mình.
Hai   vị tăng vừa gặp lấy làm lạ liền sanh nghi ngờ, hỏi: Đại đức là bậc   Thánh nhân, uy danh đầy khắp cõi Diêm-phù-đề, tại sao lại tự cúi thấp   mình làm tăng chụm lò như vậy?
Thánh Đạt-ma Mật-đa đáp: Nay ông nên   biết, ta gẫm nhớ trong vòng sanh tử chịu khổ lâu dài. Vì thấy rõ cái khổ   đó nên giả sử đầu và tay có thể nhen đốt được, ta sẽ vì chúng tăng mà   đốt hết, huống nữa là những phần khác của thân đem để chụm lửa thì đâu   đáng gì mà cho là khó? Ta nhớ lại vào thuở xa xưa trong 500 đời thường   làm thân chó đói khát khổ sở. Tuy trải qua nhiều thân chó, nhưng chỉ có   hai lần được no đủ. Một lần nhân có người uống rượu quá say ói mửa bên   cạnh đường, ta đi ngang gặp được một lần no. Lại một lần khác làm chó   trong nhà nghèo, hai vợ chồng nấu cháo đựng đầy trong niêu và có việc   tạm đi vắng. Ta vì đói nên chui đầu vào trong niêu mà ăn, khi ăn được no   rồi thì rút đầu ra không được. Người nhà về gặp như thế liền nổi giận   dữ lấy dao bén chém đứt đầu ta. Ta nghĩ đã thọ thân chó 500 lần, tuy có   hai lần được no nhưng bị mất thân mạng. Thế nên gẫm lại trong sanh tử   lâu dài quanh quẩn trong năm đường, tuỳ sanh ra nơi nào thảy đều chịu   khổ. Cho nên ngày nay ta chẳng từ mọi nhọc nhằn, sao lại chối từ, không   vì chúng tăng mà nhóm lửa?
Giờ xét lại mình, hôm nay mình tu hành là   nhọc hay không nhọc? Nếu nói thuận tiện mà không nhọc nhằn thì không   phải. Có khi vì sinh nhai mà tất bật từ sáng đến chiều, tối mới tranh   thủ một chút thời gian ngồi thiền, nghe pháp, phải phấn đấu lắm mới làm   được. Xét lại hoàn cảnh của mình phải phấn đấu để tu học Phật pháp thì   rất là nhọc, nhưng nếu quý vị thấy được cái nhọc, cái khổ trong nhiều   đời mê lầm mình đã trải qua là gian nan và đau khổ đến rợn người, thì   cái nhọc nhằn phấn đấu tu hành để thoát khổ ngày hôm nay có đáng phần   nào không? Không đáng gì để mình phải ngại cả. Khi hiểu được lợi ích của   sự tu hành là để thoát khổ, mình sẽ sẵn sàng tu hành tinh tấn hơn,  khẩn  thiết hơn, tha thiết hơn mà không hề biết mệt mỏi.
Quý vị thấy  hiện  tại mình sinh ra đời, sự khổ đau cũng nhiều chứ đâu phải là ít.  Được làm  người có phước như vậy mà còn khổ, huống nữa là sanh ra trong  các loài  kia thì còn khổ biết chừng nào. Mình đã lăn lộn trong sáu nẻo  luân hồi  biết bao lần, không ai có thể tính đếm hết được. Nếu cộng lại  tất cả  những loài mình đã trôi nổi từ vô thủy kiếp đến nay thì sự khổ  đau lớn  hay nhỏ? Khổ rất là lớn, vì vậy xét ra, khổ này là một lẽ thật.  Các vị  Thánh vì đã tỏ sáng đạo nhãn nên các Ngài mới thấy được cái khổ  trong  luân hồi một cách rõ ràng. Bằng vào cái thấy của quý Ngài và  bằng sự  chiêm nghiệm của mình hiện tại, chúng ta mới thấy được nỗi khổ  lớn trong  sanh tử là một lẽ thực. Cho nên ngày nay muốn thoát ra khỏi  cái khổ lớn  đó thì không gì hơn là phải chuyên tâm lo tu tập. Một khi  vầng trăng  trí tuệ được tỏ rạng thì bóng đêm đau khổ sẽ tự trừ. Quý vị  phải biết  cách dẹp khổ, đừng nên chăm chăm nhìn vào cái khổ đó rồi nóng  vội muốn  cho nó qua thật nhanh, đừng nên để ý nó và cũng không có tâm  niệm để mặc  nó. Chỉ là ngay đó, tâm mình khéo lặng trong thì các khổ tự  trừ. Thực  tế thì hiện tại mình có khổ thực chứ không phải là không,  nhưng thực ra  cái khổ đó không có khả năng làm cho mình khổ mà mình vẫn  thấy khổ thực,  là vì mình đang mê. Còn khi trí tuệ bật sáng thì những  cái khổ đó nhìn  lại giống như một trò cười, không đáng, nhưng không  hiểu sao mình lại  khóc cười trên đó được. Quý vị thử nhớ lại những nỗi  khổ thời ấu thơ,  hiện nay đâu có giá trị gì? Rõ ràng nỗi khổ đó không  thật mà hồi trẻ con  mình lại thấy nó có vẻ khủng khiếp. Thì tương tự,  những nỗi khổ hôm nay  mình cho là ghê gớm, nhưng rồi ngày sau nó cũng  chẳng còn có giá trị  gì. Mới biết khổ đau là không thật. Và nên biết  sớm, biết kịp thời để  chúng ta khỏi phải mất một thời trả giá thương  đau. Muốn được như vậy  thì một mặt không theo các thứ bên ngoài, mặt  khác phải thường giác  tỉnh, khéo lặng lại trên các cảnh khổ đau. Khi  lực giác tỉnh đủ lớn thì  các khổ đau tự tiêu trừ, không cần nhọc công  đuổi dẹp. Tu là để giác.  Trở về tánh giác thì các vọng, nghiệp, khổ tự  trừ, chứ không phải nhọc  công đi dẹp những thứ huyễn hóa không đâu đó.  Có khi chúng ta nghe nói  dẹp bản ngã, tiêu trừ nghiệp, giải thoát khỏi  sự trói buộc khổ đau...,  chúng ta liền tưởng tượng lập nên một bản ngã  thật trong đầu để dẹp, có  một cái nghiệp thật để tiêu trừ và có một sự  trói buộc thật để cởi bỏ  giải thoát. Đó là lầm. Đang khi chưa có gì thì  thẳng đó mà lặng trong,  đừng lập thêm một pháp. Khi nó đến thì phải  thấy rõ, nó là đồ giả, không  thật, không theo nó, tìm lại sự lặng trong  trên nó thì tất cả mọi thứ  tự tiêu trừ. Dụng công như thế sẽ có hiệu  quả và không phải nhọc nhiều  công sức. Các bậc cổ đức đã thoát ra rồi,  thấy rõ và đã nói lại cho  chúng ta biết “nằm ở trong vòng luân hồi mà  chịu cái khổ suông”, chỉ do  chúng ta còn mê nên mới thấy có cái khổ  thực. Bây giờ muốn hết khổ thì  không gì hơn là phải siêng năng tu tập  để vầng trăng trí tuệ được tỏ  rạng thì bóng tối đau khổ sẽ tự trừ. Cho  nên vấn đề cốt lõi muốn giải  quyết được cái khổ lớn sanh tử thì chỉ cần  tỏ sáng vầng trăng trí tuệ  nơi chính mỗi người là xong.
4/ VỀ VỚI VẦNG TRĂNG CHÂN THẬT CHÍNH MÌNH
Nãy   giờ quý vị đã thấy được giá trị của vầng trăng trí tuệ nơi mình là như   thế nào. Hôm nay là ngày rằm, quý vị dù muốn hay không thì cũng đều  đang  tắm mình trong ánh trăng sáng vằng vặc ấy. Nhưng phải coi lại, khi  đang  tắm mình trong vầng trăng đó thì có biết làm cho vầng trăng ấy  sáng tỏ  thêm lên hay là chỉ biết vui theo vầng trăng bên ngoài để vầng  trăng kia  lui dần vào bóng tối.
    4.a/ Vui theo loạn động là đau khổ
Muốn   được tắm mãi trong vầng trăng ấy thì phải biết thưởng thức vầng trăng   ấy như thế nào. Trước tiên đặt lại vấn đề, mình vui theo trăng gió bên   ngoài là có lỗi hay không lỗi? Vui theo trăng gió bên ngoài là thanh   thoát hay khổ đau? Thông thường, chúng ta nghĩ rằng mình ngắm trăng,   thưởng trăng là cái vui thoát trần, không đến mức lỗi như đắm vào những   thú vui trần tục khác. Không ai bắt lỗi mình trong đó cả, nhưng nếu  nhìn  kỹ hơn mới thấy, vui theo trăng gió bên ngoài là cả một sự thiệt  thòi  lớn cho chính mình. Nhìn được mặt đó mới thấy được cái lỗi nơi  chính  mình để từ đó, buộc mình ra khỏi chứ không ai bắt lỗi mình trong  vấn đề  này. Tại sao như vậy? Vì khi vui theo trăng gió bên ngoài là  quên mất  chính mình, và khi ấy không những trăng gió bên ngoài, mà bất  cứ thứ gì  bên ngoài cũng đều làm cho chúng ta quên mất chính mình. Mà  quên mất  chính mình, bất giác lao ra thì vòng luân hồi có ra từ đó. Bất  giác lao  ra để đi trong vòng sanh tử luân hồi thì sướng hay khổ? Dứt  khoát là  phải chịu khổ chứ không thể nào tránh khỏi. Vui với trăng thì  thanh  thoát, nhưng lỗi ở chỗ vui theo trăng bên ngoài, phải đánh lỗi  ngay chỗ  phóng ra đó. Một chút phóng ra này mình coi nhẹ, coi là bình  thường,  nhưng đó là cái gốc đi trong luân hồi, vào luân hồi thì phải  khổ, cho  nên vui theo trăng gió bên ngoài chưa hẳn thực sự thanh thoát.
Trong   Kinh A Hàm có kể lại, có một vũ kịch sư đến hỏi Đức Phật rằng: “Con  nghe  ngoại đạo nói, ai mà vũ kịch hay, làm cho nhiều người vui thích  thì sau  khi chết sẽ sanh lên cõi trời hý tiếu, có phải vậy không thưa  đức Thế  Tôn?”.
Bấy giờ Đức Phật lặng thinh không đáp, đợi cho vũ  kịch sư hỏi  ba lần, Đức Phật mới nói. Tại sao Đức Phật không nói liền  mà phải đợi vũ  kịch sư lặp lại câu hỏi ba lần mới nói? Vì lúc đầu ông  không khách quan  để hỏi tìm chân lý mà muốn Đức Phật trả lời một câu  thích ứng với sở  thích của mình, tức là sinh về cõi trời hý tiếu, vì  ông đang là một vũ  kịch sư rất giỏi. Vì thế, Đức Phật phải đợi khi ông  hỏi đến ba lần thì  tâm thiết tha cầu học đã có, lúc ấy Đức Phật mới  nói: “Người vũ kịch vui  làm cho tâm người buông lung, ba độc dấy khởi.  Do tạo cái nhân ấy cho  nên sẽ mắc quả báo sanh vào địa ngục hý tiếu”.
Thường  ngày mình nghe  nói người nào làm cho người khác vui thì có phước,  nhưng Đức Phật lại  nói vào địa ngục là sao? Tại vì khi làm người vui  thì tâm của người đó  bị buông lung, mà khi buông lung, bất giác thì ba  độc dấy khởi. Có lúc  nào quý vị đang sáng tỏ rõ ràng mà có tham sân si  không? Không. Khi nào  mình mê tối thì mới có tham sân si. Đang sáng thì  không tối, mà quên  sáng để đi ra thì mờ tối, con người khi đã ra thì  tâm bị chao đảo, mà  chao đảo thì không làm chủ được chính mình, không  được định tĩnh, buông  lung, ba độc dấy ra từ đó. Tạo cái nhân làm cho  một người mất đi sự tự  chủ của chính họ, buông lung, chịu ba độc để khổ  thì có thể sanh về cõi  trời được không?
Qua đó mới thấy không phải  nhất thiết mình làm cái  gì cho người khác vui cũng đều được phước lành.  Muốn được phước lành,  còn tùy thuộc niềm vui ấy có chánh đáng hay  không chánh đáng. Nếu niềm  vui đó là vui trong tịch tĩnh, vui trong sự  trong sáng, dứt các vọng  niệm, hợp với đạo lý thì đó là niềm vui trong  sạch, vui giải thoát thì  đó là tốt. Còn trái lại nếu vui theo ngũ dục,  vui theo trăng gió bên  ngoài, khiến cho tâm thần dao động, phiền não  phát sanh, đó là niềm vui  trần tục, kết tập nhân đi vào sanh tử, mà  sanh tử thì khổ đau. Cho nên  phải tạo niềm vui chính đáng cho người thì  mới được phước. Còn làm cho  người vui trong mê lầm, chịu khổ, tạo nhân  cho người khổ thì mình phải  đọa vào địa ngục hý tiếu.
    4.b/ Bất giác, dao động là nguyên nhân đưa đến khổ đau
Tại   sao vui với trăng gió bên ngoài mình phải chịu khổ? Nếu như trên cái   vừa lòng thích ý có thể làm cho mình vui thích được thì cái nghịch ý   trái lòng cũng có thể làm cho mình khổ đau được. Vì sao lại như vậy?   Thường mình nghe và chỉ nhớ vui và khổ mà quên rằng tại sao mình khổ,   làm sao được vui. Một cảnh vui làm cho mình vui được là vì mình quên   mình lao ra theo cái vui và cảm nhận nó. Trên cảnh vui mà mình quên mình   lao ra được thì trên cảnh khổ mình cũng sẽ quên mình mà lao ra được.   Bởi vì khi bắt đầu lao ra là động. Do sự bất giác, dao động, dấy tâm rồi   mới lao ra và cảm nhận vui buồn. Trên cái vui mà bất giác, dao động   được thì trên cái khổ tâm mình cũng theo đó mà không giác, náo động và   khổ đau. Bất giác và dao động trên cái vui quen rồi thì nó sẽ lớn mạnh   và chi phối mình khổ đau nhiều trên cảnh đau khổ. Chính cái bất giác,   dao động, dấy tâm lao ra này là cái làm cho khổ và vui chi phối được   mình. Cái khổ và vui là cái bên ngoài, tự nó không có khả năng chi phối   mình. Nhưng tại mình bất giác, dao động, lao ra thì ngay cái dao động   lao ra đó là lỗi. Trên khổ mà không tĩnh lặng, cứ dao động lao ra thì   phải chịu khổ thôi, không trốn được. Chừng nào trên khổ mà mình giác lại   được thì khổ đó không chi phối được mình, thì trên khổ mà mình không   khổ. Mà muốn giác mạnh thì trên vui, mình không có quyền mất mình để vui   trên đó. Tuy rằng trăng gió bên ngoài là đẹp, là mát, là thơ, nhưng   quên mất mình đi ra thì những cái vui đó làm cho mình đi ra hoài, huân   thành lối mòn, tập cho mình quen thói bất giác, cho nên khi khổ tới,   mình mất tự chủ và bất giác liền, khi đó các khổ xâm nhập và mình phải   chịu khổ đau. Nếu mình không thấy điều quan trọng đó thì không bao giờ   thắng được. Cho nên ở đây phải thấy cho rõ, thấy cho tường tận chỗ bất   giác phóng ra thì mình mới thấy được sự tai hại của việc vui theo trăng   gió bên ngoài, chuốc lấy sự đau khổ là như vậy. Không phải trăng gió  làm  cho mình khổ mà chính cái bất giác huân thành thói quen này làm cho   chúng ta khổ.
Nói rộng ra cho quý vị thấy, trên một cảnh vừa lòng  mà  mình vui theo thì khi ấy mình bất giác, quên mất chính mình mà phóng  ra.  Vừa bất giác phóng ra mà không giác trở lại kịp thì mình đang theo  cái  sanh diệt và bị cái sanh diệt đó cuốn trôi, cũng giống như người  chưa  biết bơi mà ra chỗ nước sâu, vừa lao ra thì liền bị trượt chân  chết  đuối. Cho nên lao ra bị sanh tử cuốn lôi là khổ chứ không phải vui  theo  trăng gió bên ngoài là khổ. Chính trên cảnh vui nhỏ mà bất giác  lao ra  thì chính cái bất giác lao ra đấy huân lâu ngày sẽ trở thành  thói quen,  thành lối mòn nên khi cảnh khổ tới, mình cũng bị cái thói  quen lao ra đó  khiến cho mình mất tự chủ, từ đó bị cảnh khổ chi phối và  phải chịu khổ.  
Từ đây rút ra kinh nghiệm, những cái vui và khổ của  thế gian có ra  đều từ bất giác. Hai cái đó là vô thường đắp đổi chứ  không có thực. Mà  cái vô thường đắp đổi không thực thì không có quyền  làm cho mình vui  buồn trên đó. Tại vì chúng ta bất giác lao ra nên phải  chịu vui khổ trên  cái vô thường tạm bợ không đáng đó thôi.
Người  bình thường không xét  kỹ thì coi niềm vui trăng gió bên ngoài là thanh  thoát, nếu nói vui  theo trăng gió bên ngoài là khổ thì không ai chấp  nhận. Nhưng nếu nhìn  kỹ hơn, thấy được cái bất giác lao ra theo niềm  vui bên ngoài đó chính  là nguyên nhân làm cho mình khổ, thì mới thấy  cái vui thanh thoát đó rất  nhỏ, không đủ để bù lại cho cái khổ từ sự  bất giác của mình. Ngày xưa,  quý Ngài đối với việc này rất kỹ chứ không  phải xem thường như mình. Sở  dĩ mình coi thường là bởi mình chưa thấy  được cái tai hại và nỗi khổ từ  sự bất giác đó. Cũng không phải riêng  chúng ta ngày nay mà xưa kia có  nhiều vị tu hành đắc lực nhưng cũng do  dễ dàng tha thứ, dễ dàng xem  thường một chút vui nhỏ của trăng gió này  mà phải đi lại vào trong vòng  luân hồi, chịu lao đao lận đận.
    4.c/ Thoạt vừa khinh suất, đi vào luân hồi
Chắc   ai cũng biết cuộc đời của ông Tô Đông Pha, là một vị quan hiểu đạo lý,   sống một đời tiêu dao với trăng gió thơ ca, không hề màng tới chuyện   trần tục, nhưng cũng phải chịu bao gian nan, khổ sở, truân chuyên, bị   lưu đày từ vùng này sang vùng khác, có khi vừa đưa lên làm quan cửu phẩm   lại bị hạ xuống tầng thấp nhất, vừa bị đưa đày đến vùng biên ải chưa   đến nơi, lại bị tội khác đày đến một vùng khác. Tiền thân của ông Tô   Đông Pha là Thiền sư Giới ở núi Ngũ Tổ, khi sắp tịch Ngài chống cây gậy   rồi tịch. Như vậy công phu tu hành của Ngài không phải thường. Nhưng vì   trong lòng còn chút vui theo cợt gió, thưởng nguyệt, vịnh trăng, nên  đời  sau mang phước đức tu hành cộng với cái vui trăng gió đó để đi làm  một  ông quan, tiêu dao với phong nguyệt thơ ca rất hay, gặp Ngài Phật  Ấn bàn  bạc đạo lý rất giỏi, nhưng song song đó phải chịu cảnh lận đận,  lao đao  như vậy. Cái vui này không phải mới có từ thời làm thiền sư, mà  đã có  từ thời cùng ngài Phật Ấn làm huynh đệ. Ông Tô Đông Pha có một  kiếp cùng  Ngài Phật Ấn làm huynh đệ tu hành, nhưng ngài Phật Ấn chuyên  tâm tu tập  nên đời nào Ngài được sanh ra cũng tiếp tục tu hành. Còn ông  Tô Đông  Pha là sư đệ, tu thì tu, mà thấy trăng thì cứ ngắm, trào phúng  thì cứ  làm thơ. Ngài Phật Ấn thấy vậy thương nên phát nguyện đời nào  sư đệ sanh  ra mà bị lầm lỗi thì đời đó Ngài sẽ sanh cùng để khơi dậy  chủng tử tu  hành, không để sư đệ theo thói đó mà bị sa đọa. 
Bây giờ  mình mới  thấy rõ, một chút xíu vui theo trăng gió bên ngoài, mình coi  là tầm  thường, coi là thanh thoát, thoát tục, nhưng chính cái nhỏ đó  làm cho  mình phải đi vào trong vòng luân hồi sanh tử để rồi chịu bao  cảnh lận  đận lao đao. Đem ra cân lại, vì một chút xíu vui theo trăng  gió đó để  đổi lại cái bị lận đận lao đao, gian truân quá khổ thì niềm  vui nhất  thời đó có xứng đáng cho chúng ta vui không? Không xứng đáng  thì mình có  nên lao ra để vui theo trăng gió bên ngoài không? Nhiều lúc  chúng ta  không xét, bị nó lừa nên coi nhẹ nó, mình sống chung với nó  một cách hòa  bình, an nhiên, thấy không có gì cả, cho tới khi khổ rồi  mới khóc thì  lúc đó làm gì kịp. Cho nên bây giờ phải lo tỉnh trước cho  chắc ăn.
Một  chuyện tương tự, thời vua Thành Thái, có một vị trụ trì  ở chùa Từ Hiếu  đạo cao đức trọng (hình như là ngài Cương Tử), tu thiền  định rất miên  mật. Ngài ngồi thiền nhiều đến nỗi mi mắt sụp xuống, mỗi  lần muốn nhìn  phải vén mi mắt lên mới thấy. Khi vua Thành Thái đến  chùa, bảo thị vệ  đứng bên ngoài, một mình vua xuống ngựa đi bộ bước  thẳng vào phương  trượng, thoi vào bụng vị Hòa thượng một cái. Hòa  thượng nắm tay vua, hai  người cùng đi dạo ra ngoài vườn nhổ củ mì (sắn)  rồi cùng nhau nướng ăn.  Vị Hòa thượng cũng không thấy mình là một vị  hòa thượng đạo cao đức  trọng, vua cũng không thấy mình là một vị vua,  hai người trở lại trong  một phong thái rất bình dị, thân gần. Tại sao  lại như vậy? Cũng bởi đã  từng cùng nhau tu hành từ nhiều kiếp trước đó.  Hai người thường cùng  nấu, cùng ăn và cùng kể chuyện kiếp trước đã  cùng nhau tu hành như thế  nào. Nhưng vua Thành Thái tu thì tu mà vẫn  ham vui theo bên ngoài nên  mang cái phước tu hành đó kết hợp với cái  vui này mà đời nay phải sanh  ra làm vị vua. Một vị vua quý vị thấy  sướng hay khổ? Chưa chắc có đầy đủ  tài sản, quyền uy, danh vọng là  sướng mà khi nào ngồi trên địa vị danh  vọng, của cải, quyền uy thì quý  vị mới nếm được cái khổ của những thứ đó  là dường nào. Là một người tu  hành mà ham thích một chút vui bên ngoài  để rồi mang phước đức tu hành  làm một ông vua rồi phải chịu khổ như vậy,  khi vua nhớ lại, đến thăm vị  trụ trì ngày xưa đã từng tu hành với mình,  thì trong lòng biết bao  ngậm ngùi, quý vị có biết không? Giả sử bây giờ  quý Thầy nhắc lại tiền  kiếp quý vị đã từng tu hành với quý Thầy như thế  nào, rồi quý vị so lại  đời sống tu hành thanh thoát của mình ngày xưa  với cảnh sống bây giờ  trong một gia đình nhỏ nhoi, nhộn nhịp, lăng xăng  lộn xộn, vội vội vàng  vàng thì chắc rằng không ai mà không bùi ngùi, tủi  thân, buồn tiếc,  phải không? Cho nên ham vui một chút để rồi chịu khổ  thì thật là tội  nghiệp và đáng tiếc thay.
Ngài Vân Môn cũng vậy, ngày  xưa Ngài cùng  sư huynh tu trong cùng một pháp hội, nhưng vì còn tâm ưa  thích bên  ngoài nên có nhiều đời phải làm vua, bị gián cách việc tu  hành. Sau khi  hết làm vua, chủng tử tu hành nó gợi nhắc lại nên quay trở  lại tu và  sau này trở thành một thiền sư đạt đạo. Sư huynh của Ngài tu  hành miên  mật nên những đời Ngài làm vua thì sư huynh vẫn tiếp tục tu,  cho đến  ngày Ngài ngộ đạo thì sư huynh cũng ngộ đạo. Hai người ngộ đạo  như  nhau, nhưng so về cái dụng thì ngài Vân Môn không bằng sư huynh, do  vì  một số đời làm vua, việc tu hành bị gián đoạn.
Chúng ta đã biết  ngài  Quy Sơn Linh Hựu là một thiền sư nổi tiếng ở Trung Quốc. Lúc Ngài  xuất  gia tu hành, đang trên đường đi thọ giới, thì ngài Hàn Sơn, Thập  Đắc  (hiện thân của ngài Văn Thù, Phổ Hiền) rình trong bụi rậm đón đường,   đợi ngài Quy Sơn đi qua liền nhảy ra, hét lên một tiếng thật lớn. Ngài   Quy Sơn giật mình. Hai vị nói: “Có nhớ ta chăng? Ta cùng ông ở trong hội   của Phật Thích Ca, trải qua mấy trăm đời làm quốc vương mà quên nhau   rồi hay sao?”. Tức là ngài Hàn Sơn, Thập Đắc trải qua nhiều đời tu hành   miên mật nên diệu dụng rất phi thường. Còn ngài Quy Sơn vì có mấy trăm   đời làm quốc vương nên hôm nay quên, không nhớ ngày xưa đã cùng tu hành   với hai ngài Hàn Sơn và Thập Đắc. Một bên tu hành liên tục nên đời nay   nhớ lại bao nhiêu kiếp và diệu dụng thấy đạo rõ ràng. Còn một bên cũng   tu hành, nhưng trải qua nhiều đời làm vua, bao đời làm vua là bao đời   trí tuệ bị ngăn cách nên nay còn gánh gói đi thọ giới, không nhớ đời   trước mình là ai. 
Đó là chuyện xưa, bây giờ quý vị xét lại nơi mình.   Có nhiều người ở thế gian nhiều lúc thấy những cảnh ngoài đời cũng   không có gì đáng thích thú, trong thâm tâm nhiều lúc cũng muốn xuất gia,   hoặc có vị khi thấy hình ảnh người tu cũng ngậm ngùi, man mác như là   nhớ lại cái gì xa xăm khó tả, có khi chịu không nổi, muốn đi tu, nhưng   lúc chuẩn bị dứt áo ra đi, nhìn lại thấy mình còn bị nhiều cái cột chân   quá, đi không nổi. Đó cũng là một dấu hiệu cho biết rằng, đời trước  mình  cũng có nhân duyên xuất gia tu hành, cho nên đời nay thấy cảnh tu  mới  có những cái man mác trong lòng như vậy. Nhưng mà đã có lần lỡ vui  với  đêm trăng nào đó. Thấy đêm Trung Thu gió mát, trăng thanh, cảnh vật  hữu  tình, dọn bánh dọn trà ra để vịnh trăng thưởng nguyệt. Vì mang  phước đức  tu hành của quá khứ cộng với cái duyên vui đó, nên đời nay  phải có một  ngôi nhà tạm gọi là đầm ấm, nhưng ngôi nhà đó có gì bền  chắc và trong đó  là vui nhiều hay khổ nhiều? Một khi cái duyên vui theo  trăng gió bên  ngoài đã huân vào rồi thì sẽ làm cho duyên tu của mình  kém mỏng, vì vậy  mà đời này muốn tu nhưng chưa đủ duyên để tu. Biết vậy  thì phải dàn xếp  làm sao cho duyên mình đủ mới được, chứ còn ngày nay  nếu không biết được  căn nguyên cội nguồn của nó, mà vẫn còn lao theo  những duyên vui bên  ngoài thì sẽ còn tiếp tục bị lôi kéo nữa, không  biết đến bao giờ duyên  trần nó mới tha thứ cho mình thoát ra được.
Như  vậy quý vị thấy, dù  đã có công phu, nhưng nếu mình xem thường và dễ  dàng tha thứ một niệm  lao ra vui theo trăng gió bên ngoài thì chính  niệm đó lại có tác dụng  dẫn mình đi trong sanh tử và phải chịu quả khổ.  Cho nên phải biết rõ  rằng, ngày nào mình còn lao ra vui đùa theo ánh  trăng bên ngoài thì ngày  đó còn mê, mà mê thì phải chuốc khổ thôi, chứ  không có cái vui nào thực  trong mê cả.
Vì vậy, là người hiểu đạo lý  chúng ta phải thấy rõ sự  nguy hiểm của một niệm lao ra khiến tâm mình  phải chao động, phải tiêu  hao khí lực và khổ đau. Thấy rõ như thế thì  không bao giờ mình dám lao  theo cái vui thưởng trăng, ngoạn gió bên  ngoài tạm thời đó để rồi phải  chịu cái khổ lâu dài, mà mình phải biết  quay về với vầng trăng chân thật  nơi chính mình, như thế mới hưởng được  niềm vui chân thật và lâu dài  được.
Thông thường chúng ta đợi khi  khổ rồi mới nhận thấy. Nhưng nếu  ai khéo, một niệm dễ vui phóng ra,  liền nhận thấy rõ chỗ lao ra đó là  nguy hiểm, nếu mình nghiêm khắc  không dễ dàng tha thứ thì mới nhận ra  được cái lắt lay, chao động của  tâm mình, mà khi thấy được cái lắt lay  chao động làm cho mình khổ thì  sẽ rất sợ. Nếu mà sợ được thì mới không  dám lao ra, nếu lúc nào quên,  lao ra thì cái sợ này nhắc mình thức liền.  Khi được nhắc hằng ngày như  vậy thì sức tỉnh giác rất cao, sức tỉnh  giác cao thì không đi ra, lâu  dần sức giác càng lớn, có nghĩa là vầng  trăng trí tuệ càng sáng. Vầng  trăng trí tuệ sáng thì khổ vui cuộc đời  bớt chi phối mình, còn nếu quý  vị nào ráng tu mạnh mẽ hơn thì khổ vui  trong đời không còn đủ giá trị  chi phối mình nữa.
5/ TRĂNG MÃI CÒN ĐÂY
Như  vậy, ngay một niệm  lao ra là đang theo vầng trăng bên ngoài mà quên đi  vầng trăng đang  sáng nơi chính mình. Cũng ngay niệm lao ra đó mà kịp  giác trở lại thì  ngay đó, vầng trăng tâm đang vằng vặc sáng từ thuở nào  đến giờ chứ  không phải mới sáng đây. Tại mình lao ra nên bị mây tạm che,  giác trở  lại thì mây tan trăng hiện. Khi mà mình rõ được vầng trăng nơi  chính  mình rồi thì không còn cố ý đi ngắm trăng, nếu có gặp vầng trăng  ngoài  thì trăng ngoài trăng trong lồng lộng không gián cách chứ không  phải  buộc quý vị bịt mắt, không được ngắm vầng trăng bên ngoài. Lỗi là ở  chỗ  mình lao ra, chỉ biết trăng bên ngoài mà không biết trăng nơi chính   mình. Khi hai bên không còn gián cách thì không còn luận là trăng   trong, trăng ngoài mới có thể nói đến vầng trăng thu được. Còn thấy có   trong, có ngoài, thấy mình và trăng còn khác thì nói trăng là mê theo   trăng. 
Vào ngày rằm Trung thu, Thiền sư Hệ Nam có cảm hứng làm một bài thơ về trăng thu rằng:
Trung thu đêm ấy ngày rằm
Trăng trong khe biếc in thầm bóng trôi.
Sông Ngân đâu chỉ thế thôi
Bốn trăm châu cả sáng ngời thiếu chi.
Đêm   ấy, ngày rằm trung thu, bên một bờ khe trong vắt, trăng in bóng lạnh  âm  thầm trôi trên đó, ngắm một vầng trăng trong núi như thế rất tuyệt.   Không chỉ khe đó mà sông Ngân hà trên trời cũng đang tắm mình trong  vầng  trăng đó. Và cũng không chỉ sông Ngân mà cả bốn trăm châu cũng  sáng  ngời vầng trăng đó không thiếu. Vầng trăng đó trùm hết tất cả mọi  chỗ,  soi thấu đến tất cả nơi, không chỗ nào bị ngăn che, thiếu vắng.  Ngài Hệ  Nam đang ngắm vầng trăng nào mà sáng quá vậy? Bàng bạc ánh  trăng nơi tâm  Ngài đang lồng lộng cùng ánh trăng bên khe suối không chỗ  xen hở, mình  và vật đều quên, không còn phân biệt đây mình, kia vầng  trăng thanh nữa,  lúc ấy, vầng trăng tâm bàng bạc soi khắp cả bốn trăm  châu, không chỗ  nào mà vầng trăng ấy không soi tới. Ngài Hệ Nam ngắm  được vầng trăng đó  (ngắm cũng là một cách nói vì ngắm là có bên ngoài),  thì quý vị có quyền  ngắm được vầng trăng đó không? Nơi Ngài có thì ai  cũng sẵn đủ, chỉ là  quên mình theo vật thì bị ánh trăng bên ngoài làm  cho chúng ta tán loạn  và chịu khổ đau, nhưng vừa nhớ lại thì vầng trăng  vằng vặc sáng khắp tất  cả nơi, không chỗ nào mà không soi thấu.
Có  người biện luận rằng  mình cứ ngắm trăng, miễn là trăng trong, trăng  ngoài không có sự ngăn  cách là được. Nhưng mình phải thật thà coi lại  là có thực sự ngăn cách  hay là không ngăn cách. Chỗ này chúng ta cần  phải chín chắn dụng công,  chứ không phải thích đi ngắm trăng rồi dùng  lý đạo để lái theo cho hợp  với sở thích phàm tình của mình, rồi mình  vui theo bên ngoài cho thỏa  thích.
Có một vị tăng thưa với Thiền sư Viên Chiếu rằng:
Nhiều năm cất giấu báu trong đãi,
Ngày nay trước mắt thấy rõ ràng.
Ngài Viên Chiếu nói:
Chỉ đợi trăng thu sáng,
Đâu ngờ mây mưa che.
Từ   lâu lắm rồi, ai ai cũng sẵn một viên ngọc quý báu ngay nơi đãi da hôi   thối này. Và vị Tăng này nói, hôm nay ông thấy rõ ràng ngay trước mắt.   Đã là của báu ngay chính mình mà nói thấy là thấy cái gì bên ngoài rồi.   Tuy vị tăng có thấy được Phật tánh rõ ràng trước mắt, nhưng thấy mà  còn  có một cái để nói tức là còn đối tượng, thì chưa khỏi bị kẽ hở cho  phàm  tình có chỗ chen vào. Và nếu đã thực thấy, thực nhận ra thì cứ mặc  tình  dùng đi, đến đây làm gì? Còn đến đây để nói như vậy thì đã lòi ra  áng  mây mê mờ che lấp vầng trăng mình rồi. Cho nên Thiền sư Viên Chiếu  nói,  ông cứ ngỡ đợi đến Trung thu là trăng sáng, nhưng không ngờ đã  vụng về,  làm mây mưa che khuất vầng Trăng thu nơi ông rồi.
Đêm nay  là ngày Rằm  Trung Thu, tất nhiên trăng sẽ sáng. Nếu quý vị không có chủ  ý rằng, đêm  nay mình sẽ bày trà bánh để ngắm trăng, thì lúc nào trăng  thu cũng hồn  nhiên sáng vằng vặc. Còn nếu vừa tác ý bày trà bánh ngắm  trăng thì “chỉ  đợi trăng thu sáng, đâu ngờ mây mưa che”.
Chính vì vậy, trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo, vua Trần Nhân Tông nói:
Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý
Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm.
Đi   dạo chơi nơi non xanh, nước biếc thì có nhiều người ưa thích. Nhưng   trong đó, người biết rõ đào là hồng, liễu là lục, các pháp thế nào thì   thấy thế ấy, thấy biết một cách rõ ràng mà không có chỗ cho tình thức   xen vào, thì có được mấy người đồng cảm thông, là tri âm của Ngài. Cho   nên chuyện ngắm trăng bên ngoài là chuyện thường ở thế gian, nhưng biết   rõ trăng là trăng thì có mấy người thấy biết được như thế. Trên cảnh mà   giác biết, sáng tỏ rõ ràng, không đánh mất chính mình thì vầng trăng  tâm  đang soi sáng bàng bạc, có nơi nào thiếu vắng! Sống được như vậy  thì Sơ  Tổ nói người này đồng thông cảm với Ngài, là tri âm của Ngài.
Muốn   trên cảnh rõ ràng mà không mất mình thì phải làm sao? Điểm chính yếu  là  nơi tâm mình phải rỗng suốt, thanh tịnh, không một chút bợn nhơ.  Ngay  đó, trước thì rỗng, sau thì khoáng nên không có ngằn mé, không có  giới  hạn, thênh thang. Vì thế ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ nói:
Tâm thanh tịnh không nhơ, không bợn.
Thân kiên cố không trước, không sau.
Sắc xuân hoa đóa đóa tươi hồng,
Trăng thu bóng tròn tròn viên diệu.
Đến trong đây, ánh trăng thu rực sáng mà mầu nhiệm lạ thường!
Thiền   sư Tùng Duyệt ở Đâu Suất một hôm thượng đường nói: “Tai mắt một bề   trong, ở yên trong hang vắng, gió thu vào cổ tùng, trăng thu sanh sông   biếc. Thiền tăng khi ấy lại cầu chân, hai con khỉ đột bốn đuôi duỗi”,   Nói xong, Sư hét lên một tiếng.
Ngài nói gì vậy? Nói về trăng thu mà   Ngài nói gì không ai biết gì cả? Tức là Ngài dạy chúng ta tai mắt phải   một bề trong, không để cho trần khuấy đục thì quý vị sẽ thấy rõ. Mà khi   ấy thì phải ở yên trong hang vắng, không có quyền phóng ra để đem  khách  trần vào. Ngay đó, gió thu mát rượi sẽ thổi vào cội tùng cổ, ngay  khi ấy  niềm vui tràn ngập trong ánh trăng thu. Chỉ cần không tâm tạo  tác,  không tâm tìm kiếm, ngay đó khéo nhận thì liền xong. Còn nếu vừa  có tâm  kiếm tìm thì ánh trăng thu bị khuất mất. Thẳng đó liền là chơn,  vừa có  niệm tìm chơn liền mất, thiền tăng ngay đó còn tìm một cái chơn  nào khác  thì liền có chỗ hở cho tình thức vọng niệm sanh khởi. Cho nên  Ngài nói  ngược lại cho bặt cái suy nghĩ của mình, để khi bặt mây nghĩ  suy thì  trăng sáng trở lại. Nghe nói “Hai con khỉ đột bốn chân duỗi”,  mình vừa  suy nghĩ sao hai con khỉ mà có bốn chân duỗi ra? Ngài hét một  tiếng,  mình có kịp suy nghĩ không? Ngay đó, tâm tìm kiếm dứt thì vằng  vặc trăng  thu lồng lộng, ánh trăng soi bàng bạc khắp nơi.
Như vậy,  bặt niệm  đối đãi hai bên, tâm thanh tịnh rỗng rang không một chút nhơ  bợn, không  một chút chao gợn ở trong lòng thì ngay đó là ánh trăng thu  sáng ngời  viên diệu. Làm được như vậy thì vầng trăng thu của mình sẽ  tròn vẹn,  sáng ngời, mầu nhiệm, thanh khiết, viên diệu một cách lạ  thường, sáng  mãi cho tới khi nào bằng với vầng trăng canh ba mà Đức  Phật đã giác ngộ  thì viên mãn.
Cuối cùng, chúc toàn thể quý vị có  duyên nghe được bài  này, vầng trăng thu nơi chính mỗi người ngày càng  tỏ rạng hơn, hằng sáng  mãi, không để mây mưa che mờ khiến mình lầm  đường lạc lối.
Các bài mới
- Mây và trăng - 03/07/2015
- Thưa hỏi Thiền ( Phần 3) - 03/06/2015
- Dụng thẳng tâm thiền - 02/12/2014
- Trả lời câu hỏi cuộc đời - 06/11/2013
- Đức tính khiêm hòa - 30/09/2013
Các bài đã đăng
- Chớ để thời gian qua suông - 08/08/2013
- Tâm trộm - 16/01/2013
- Tâm bình thường - 06/12/2012
- Nghi vấn sau cùng của Đức Phật - 02/10/2012
Pháp Thoại
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 36437
- Online: 119
 
                
 
                              
                              
                              
                              
                              
                
				             
                              
             
             
             
             
            