Thưa hỏi Thiền ( Phần 1)

18/01/2016 | Lượt xem: 4578

ĐĐ.Thích Tâm Hạnh

Thưa hỏi:
Kính bạch Thầy, chúng con là những Phật tử đã được phúc duyên nghe pháp từ Hòa thượng Ân sư cùng quý Thầy, quý Ni sư và áp dụng tu tập nhiều năm qua. Hôm nay về đây, chúng con kính thỉnh thầy nói khái quát kinh nghiệm của thầy khi ứng dụng những lời Hòa thượng đã chỉ dạy vào công phu, để chúng con có thêm kinh nghiệm tu tập cho được tiến bộ hơn

1. THIỀN LÀ GÌ?

Chúng ta là người tu thiền, trước tiên phải hiểu thiền là gì một cách căn bản, sau đó ứng dụng công phu mới không bị sai lệch.

Giả sử hôm nọ khí trời oi bức căng thẳng, người không được khỏe, trong nhà có việc xích mích không vui, ra đường gặp toàn những việc vớ vẩn không đâu, lên công sở, ra chợ bị đồng nghiệp bạn bè hiểu nhầm hoặc quấy phá..., khi ấy, nếu mình phải xem một tập tài liệu gì đó, hoặc phải đọc một cuốn sách hay phải xem một tờ báo, quý vị thấy có dễ hiểu hay không? Đọc thì đọc chữ thôi chứ ý này nó đá ý kia rất khó tiếp thu một cách trọn vẹn. Qua đó cho chúng ta thấy, nếu để những thứ lăng xăng lộn xộn trong đời nó chi phối trong đầu mình thì nó sẽ làm cho trí tuệ chúng ta bị mờ tối và con người chúng ta không được ổn định.

Một hôm khác thức dậy với một sức sống tràn trề, mọi chuyện trong nhà ổn định, vui vẻ, khí trời mát mẻ dễ chịu, ra đường yên ả, mọi việc tại công sở đều được trôi tròn, đồng nghiệp thân thiện đáng quý, nhân khi rảnh rỗi, quý vị cầm một tờ báo hay một quyển sách mình thích lên đọc thì có dễ hiểu hay không? Không những dễ hiểu mà chúng ta còn hiểu sâu, phát minh ra những điều mới lạ, thâu gọn hết ý bài văn muốn nói gì nữa là khác. Vậy thì khi tâm mình ổn định, lóng lặng, chính là lúc trí tuệ mình được phát huy cao. Và ngay khi tâm lóng lặng, tinh thần tươi sáng, người mình ổn định, trí tuệ phát huy, ngay đó, quý Thầy tạm đặt cho nó cái tên gọi là Thiền.

Hoặc là trong cuộc sống bận rộn Hằng ngày, nhiều lúc chúng ta bỏ quên một thứ gì đó, cố nghĩ xem để nó ở đâu, nhưng những công việc trong ngày bao nhiêu thứ lại tới tấp đến mà chúng ta phải giải quyết, khi đó, càng cố nghĩ để tìm thì càng căng đầu, càng mệt. Cho đến cuối ngày, lúc xong xuôi hết mọi việc, thảnh thơi thì tự nhiên lại nhớ ra đồ mình để quên. Từ đó suy ra, những công việc Hằng ngày làm cho tâm mình bị xáo trộn, khuấy động nên mình không sáng. Khi chúng ta lắng lại tất cả những tư tưởng lăng xăng trong đầu để tâm được an định, sáng suốt thì ngay trạng thái đó là thiền.

Ví dụ như có một lu nước đang bị đục, chúng ta có đổ thêm nước trong vào thì nó vẫn đục. Muốn nước trong, không có cách gì hơn là để yên cái lu đó cho những cặn đục lắng xuống dưới thì nó sẽ tự trong. Như vậy, trong cái đục vốn đã có cái trong, tại vì chúng ta lắc động nên nó đục vậy thôi. Tâm của chúng ta cũng vậy, tự tâm của mỗi người vốn sáng, nhưng vì theo trần cảnh, không biết cách lắng lại nên đục đi, từ đó làm cho mình bực bội, mệt mỏi, tối tăm, rối ren, lăng xăng, lộn xộn, gặp việc gì cũng khổ đau, đó là chúng ta sống với tâm phàm phu tầm thường của chúng sanh. Nếu chúng ta lắng lại tất cả thì trạng thái tâm thể LẶNG MÀ SÁNG hiện tiền, ngay đó là THIỀN.

Nói thẳng đến Thiền tông, Ngài Tông Mật nói: "Thiền là không định, không loạn”. Hằng ngày chúng ta loạn động quá nên tu tập muốn dừng cái loạn động để trở về sự an định. Vậy thì Thiền không phải là loạn động thì đúng rồi, nhưng tại sao Ngài Tông Mật lại nói không phải là định nữa? Bởi vì nếu nói thiền là định thì tâm mình sẽ tự nó lập nên một cái gọi là định để gìn giữ. Nhưng nếu còn có chỗ để gìn giữ là có chỗ bám nên tình thức sanh khởi, không phải là thiền định chính thống. Vì thấy có một tâm an định để gìn giữ, có ngăn trước ngừa sau nên chỉ là sự an định do dồn tâm mà được, là sự an định có giới hạn, không phải là tính chất định rốt ráo sẵn đủ nơi tự tánh chúng ta. Khi nghe nói: Thiền là không phải định cũng không phải loạn, vậy có chỗ nào cho chúng ta bám vào làm cơ sở để hiểu được không? Khi rời cả hai bên định và loạn, không có chỗ cho tình thức bám hiểu, ngay khi không hiểu thì cái gì đang sáng biết không động đang hiện bày sờ sờ ra đó? Ngay đó nhận thẳng, mới hay ra, THIỀN đang bàng bạc khắp cả mọi lúc mọi nơi chưa từng thiếu vắng bao giờ.

2. XEM NHẸ, ĐỪNG QUAN TRỌNG MỌI THỨ BÊN NGOÀI.

Muốn giúp cho đời sống tu tập chúng ta được nhẹ nhàng, sức tỉnh giác cao, khế hợp với thiền thì trước tiên mình cần phải phần nào làm chủ ngoại duyên. Muốn làm chủ ngoại duyên, thì chúng ta đừng dính mắc mà nên xem nhẹ mọi thứ bên ngoài. Cho nên quý thầy vẫn thường nói: "Cái gì thiếu mà không chết thì không cần."

Chúng ta cần thân này để sống, để thực hiện lý tưởng chứ không phải lệ thuộc nó để thụ hưởng rồi bị vật chất sai khiến mình.

Có những người ngày xưa làm ruộng, làm rẫy vất vả, cơm không có ăn, chỉ ăn toàn khoai sắn độn lẫn vào rất ít gạo, bữa nào cũng giống bữa ấy, ăn không đủ no, bụng luôn cồn cào, thế mà người ta vẫn sống vui và khỏe. Bất thần mọi chuyện thuận lợi, cơ may đến bỗng trở thành một doanh nhân nổi tiếng, đi xe hơi, ở nhà lầu, có người hầu kẻ hạ, hét ra lửa… Được một thời gian khá dài rồi do làm ăn thua lỗ, mất hết tài sản, chỉ còn khoảng vài tỷ đồng và nhà cửa, xe cộ… Tự nhiên thấy mình bị thiếu thốn, bó buộc, mặc cảm… không sống được, buồn chán, túng quẫn… Ngày xưa cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc mà vẫn sống được bình thường. Ngày nay còn chừng đó là quá nhiều so với trước đó, nhưng tại sao lại không sống nổi? Đó là do mình quá quan trọng về vật chất nên đã bị dính mắc. Nếu khéo lìa được sự dính mắc bên ngoài thì sẽ trả lại sự tỉnh táo nơi mình. Khi đã tỉnh táo rồi thì có thiếu cơm rách áo cũng vậy, khi danh vọng tràn trề cũng vậy. Nếu đã được "cũng vậy" rồi thì mọi thứ tùy duyên, có và không cũng chỉ có vậy. Vậy là chúng ta đã đủ sức chủ động để dùng mọi thứ, chứ nó không dùng được mình. Năng lực đó sẽ giúp mình làm chủ ngoại cảnh.

3. LÀM CHỦ THÌ KHÔNG BỊ NGOẠI DUYÊN DÙNG MÌNH MÀ MÌNH DÙNG ĐƯỢC MỌI THỨ.

Ngày xưa không có gì trong tay vẫn sống được. Hôm nay nền văn minh, sự hiện đại tối tân thì mình dùng nó vào sự lợi ích, nhưng không lệ thuộc nó. Và mai sau không còn nữa, chúng ta vẫn sống như ban đầu thế thôi. Nó đến thì tôn trọng, nhưng không có nghĩa là quan trọng và lệ thuộc nó, cũng không phải bất cần, chỉ là trân trọng mà không dính mắc, không cần thiết. Điểm chính yếu là "mình dùng nó hay nó dùng mình." Cho nên có câu: “Lòng mình đủ rộng, thì hay dung hết cổ kim”. Khi thấy có một cái khiến mình bực bội, đó là lòng mình đã bị thu hẹp, không đủ rộng, không dùng được nó mà đã bị nó làm cho mình ngăn ngại, mất tự chủ về nó và không được tự do tự tại rồi.

Khi tay mình nắm một cái gì đó, có nghĩa là mình đã bị trói buộc, ngăn ngại bởi cái đó nên không thể nắm cái khác. Khi không nắm tất cả thì chúng ta được tự do, muốn nắm cái gì cũng được. Tương tự, lòng mình dính mắc một cái gì đó thì sẽ bị khu biệt trong cái đó, bị cái đó che khuất, làm ngăn ngại, lòng mình không còn đủ rộng. Nếu chúng ta không dính mắc hay dừng trụ trên một pháp nào cả, thấu suốt qua tất cả thì tâm thể ta vốn tự rỗng lặng, sáng ngời. Tâm này có đủ năng lực tự chủ, các pháp không đủ sức chi phối cho nên chúng ta được tự tại, tùy duyên trên các hoàn cảnh, không bị các pháp sai khiến mà chuyển được các cảnh, nên gọi là dùng được tất cả.


4. CÒN CÓ SỞ ĐẮC, CÒN CÓ CHỖ TRỤ LÀ ĐÃ NHỐT MÌNH TRONG HẠN HẸP, KHÔNG ĐẠT ĐẾN ĐƯỢC BIỂN LỚN ĐẠI GIÁC.

Ví dụ: Khi mình nghe tiếng ve kêu mà để ý theo nó là tâm mình đã bị cột vào nó, tự thu hẹp, không nghe được những tiếng khác. Khi cố ý nghe các tiếng khác thì lòng mình cũng bị thu hẹp tương tự. Hoặc khi chúng ta cố ý không nghe những tiếng chung quanh để tập trung lắng nghe những lời giảng giải này, tâm ta gom về một mối, tưởng vậy là an tịnh. Nhưng đó chỉ là tướng tịnh nhất thời. Bởi khi rời đây để đi ra ngoài thì tướng tịnh ấy không còn nữa. Hơn nữa, khi chú ý nghe theo lời này là đã bỏ quên bản tánh lặng sáng nơi chính mình mà đi ra theo lời này rồi, tức là đã bỏ quên cái chân thật chính mình đang biết nghe. Đây chính là chỗ tâm chúng ta bị nhốt lại, bị khu biệt bởi lời này. Tưởng chú tâm là thanh tịnh, nhưng là đang bị nhốt, tâm đã rơi vào hạn lượng sanh diệt của hai tướng động và tịnh.

Bây giờ quý vị cứ an trở lại ngay tánh sáng biết chính mình, không lo ra và cũng đừng thèm để ý gì hết, lúc này, tánh sáng biết nơi mình nó sẽ tự nghe suốt qua tất cả mà không động. Cái ấy mới chân thật, không mất trên mọi cảnh duyên.

Nếu chấp cho rằng, mình đang có một cái đang nghe cả tiếng ve, cả tiếng quý thầy nói và nhiều tiếng khác nữa thì cũng là nghe theo tiếng mà quên mất mình thôi. Cái ấy nó vẫn còn có sự chú tâm mới được nên nó chưa thật sự đúng. Nó sẽ mất khi mình chú tâm mỏi quá hay rời khỏi chỗ ngồi này. Chỉ cần an trở lại, tĩnh lặng sáng ngời, không rời cũng không trụ trên tất cả thì nghe suốt tất cả, không động, không ngăn ngại. Cái này mới là chân thật, không bao giờ mất.

Nếu nói chú tâm, làm việc gì biết việc đó. Điều này thích hợp cho người mới vào đạo. Nhưng nếu là người muốn tiến đến công phu rốt ráo hơn một tí thì phải nhận rõ, khi tâm chú theo công việc cũng là đã đánh mất chính mình mà theo vật bên ngoài. Dù được sự an định, nhưng chỉ là con đường đưa đến định tánh Thanh Văn, không đạt được đại định tự tại như chư Tổ Thiền tông chỉ dạy.

Và nếu nói trở lại với hiện tại, với thực tại, như vậy là đã lập một cái thực tại, thấy có một cái thực tại để chú tâm. Dù cái đó có lớn lao đến dường nào đi nữa thì nó cũng là cái đối tượng bị biết bên ngoài mình, không thật. Và vì có một cái thực tại này cho nên nó đã che khuất cái chân thật tuyệt đối nơi chính mình. Cụ thể là giờ đây quý vị đang chú tâm nghe quý thầy nói chuyện, tức là quý vị không tán tâm, đang được thanh tịnh, đang trở lại với thực tại. Nhưng khi chú tâm nghĩa là quý vị đã bỏ quên ngôi vị chánh định chính mình mà trụ tâm theo lời pháp này, đó là cái chân thật chính mình đã bị bỏ quên, che khuất. Đây là chỗ trong Thiền tông chưa chấp nhận là rốt ráo. Bởi nó chưa giúp cho chúng ta đạt đến đại định đúng nghĩa của nó, mà điều dễ nhận ra là người đạt đến ngang đây thì chưa phát minh trí phá sanh tử, chưa linh hoạt, chưa tự tại đúng mức như các Thiền sư đã khai thị.

5. NƯỚC CHẾT KHÔNG CHỨA ĐƯỢC RỒNG.

Thế gian thường có câu: “Hồ trong thì cá không sống được”.

Trong Kinh Hoa Nghiêm đức Phật có dạy, các bậc Bồ Tát phải giữ lại cái trí xảo trì thì mới tiến lên hành Bồ tát đạo và viên thành Phật đạo. Nếu triệt luôn cái trí đó thì chỉ dừng lại ở chỗ một vị A La Hán không phát tâm thêm mà từ chuyên môn gọi là Bất hồi tâm độn A la hán. Chỗ này trong nhà Thiền gọi là đầu sào trăm trượng, là nước chết không chứa được rồng, bởi cái trí dụng tự tại trong sanh tử chưa được phát khởi. Cho nên Thiền sư Pháp Thành ở Hương Sơn nói: "Dù cho thuần thanh tuyệt điểm, vẫn còn là chơn thường lưu chú." Tức là dù đạt được thanh tịnh rồi, nhưng nếu chưa phát được trí chiếu phá để được tự tại trong sanh tử thì vẫn còn là một sự trôi chảy nhỏ nhiệm trong chỗ chơn thường kia. Chỗ ấy vì quá nhỏ nhiệm vi tế nên chúng ta không thấy và dễ lầm tưởng cho là đã đạt đến chỗ rốt ráo rồi. Nhưng người đạt đến đây còn thấy có sanh tử đáng lìa, thấy có niết bàn cần nhập, sợ sanh tử, chán ngán sanh tử. Cái thấy còn lấy bỏ, còn thấy cái này rời cái kia, còn kẹt hai bên, đó là những biểu hiện cho thấy chưa phát được trí chiếu phá sanh tử tuyệt đối. Trí xảo trì là một cái sáng biết sinh động, sống động trong tự tánh chánh định, chứ nó không phải là cái tinh xảo, náo động trong đời thường. Cái biết này là không có chỗ biết mà biết suốt tất cả, không động, không mê mờ và không có gì là không biết. Chỗ này rất bình dị, gần gũi, bình thường. Ai chưa đến thì chưa nhận ra hết giá trị của nó nên hơi khó tin mạnh. Nhưng nếu chúng ta sống được rồi thì mới thấy rất sung sướng, tuyệt vời, mới có phần tự tại và linh hoạt trong sanh tử.

6.TÓM LẠI.

Nếu thấy nghe mà có trụ trước là có phan duyên, có dính mắc, chưa thoát khỏi sanh tử. Theo âm thanh sắc tướng là theo tướng bên ngoài. Và thấy có sở đắc, có chỗ tu chứng, có chỗ thanh tịnh để bám giữ là theo tướng bên trong, là đã bỏ mất đại định chánh trí mà theo sở chứng, như vậy là còn chỗ xen hở cho cái thức thần tồn tại. Khi hội đủ duyên, thức này phát sinh niệm khởi trở lại và vào luân hồi sinh tử. Chỗ này mới nghe qua thì thấy như là thường, nhưng có sống đến rồi mới cảm nhận được giá trị siêu xuất của nó.

7. CHỈ CẦN GIÁC TRỞ LẠI, LIỀN XONG.

Khi thấy cảnh, nghe tiếng, nghe những lời này, quý vị không cần trụ trên một cái gì cả, chỉ cần giác trở lại một cách bình thường thì tánh thấy nghe này tự nó lưu thông một cách phi thường, tự nó nghe thấy sáng biết suốt thông không động, không cần suy nghĩ mà nó vẫn thấy nghe rõ biết không ngằn mé, hơn cả suy nghĩ phân biệt tầm thường của trí sanh diệt thế gian. Chúng ta thường hay lầm chữ giác này. Phải có trụ, có chú tâm để tỉnh giác. Nhưng trụ đó là chỉ tỉnh giác trong cái an định tạm thời thôi. Còn thể tánh toàn giác này thì bản chất nó vốn không động, nó vốn tự tịnh, tự định mà biết khắp, không một vết mê mờ, cái này mới đủ lớn.

8.ỨNG DỤNG VÀO CÔNG PHU TU TẬP.

Tương tự, khi chúng ta áp dụng công phu biết vọng cũng vậy. Thông thường do chúng ta chưa nắm rõ yếu chỉ Hòa thượng Ân sư chỉ dạy nên áp dụng chưa đúng mức. Chúng ta thường bị rơi vào tình trạng đợi cho đến khi vọng khởi rồi mới biết và biết đó là biết về vọng tưởng đó, biết theo vọng mà không sống được với thể tánh chơn tâm vốn tự sáng biết. Biết như vậy là có chỗ cho thức sinh khởi. Có làm gì đi nữa cũng là có chỗ cho thức sinh, mà thức sinh thì chúng ta không làm chủ được vọng niệm nên vọng niệm cứ có hoài. Khi vọng niệm thưa thì quý vị còn biết theo vọng được, chưa phát hiện ra cái tầm hạn chế của nó. Nhưng nếu khi nhập thất, chưa có kinh nghiệm công phu nhiều, vọng niệm khởi lên thành đàn, thành đống, lúc đó mình bị choáng ngợp, bất lực, không biết nổi nữa và tự dưng mình cảm thấy hơi run run, trở ngược lại sợ hãi với chính vọng tưởng của mình. Lúc này mới phát hiện ra, do trước đó chúng ta biết theo vọng nên bây giờ không thể chiến thắng, không thể làm chủ được vọng. Từ đó chúng ta mới biết rằng, đợi vọng khởi mới có biết, biết đó là biết về vọng, biết theo đuôi vọng là áp dụng công phu chưa đúng mức nên định lực không đủ lớn, không thể điều phục và làm chủ được vọng tưởng.

Ngài Tông Mật nói: "Vọng niệm vốn không, nhưng theo nó thì thành sự." Trên thực tế, nói vọng niệm là giả, nhưng nếu không khéo tu thì nó vẫn quấy rầy chúng ta mãi. Bây giờ làm sao cho hết vọng niệm?

Thực ra vọng niệm không có chỗ sinh nên nó là huyễn hóa, không thật. Vì nếu có chỗ sinh thì nó sẽ sinh mãi không bao giờ hết và không ai tu hành thành Phật, không ai có thể giác ngộ thành Tổ được. Nhưng thực tế vẫn có người tu hành làm chủ vọng niệm và đạt đạo thì mới biết vọng niệm không có chỗ sanh ra, không thật. Rõ ràng đang ngồi tỉnh giác mạnh đây thì không có vọng niệm nào cả. Nhưng vừa thoạt quên thì vọng niệm nó có ra liền, và nếu tiếp tục theo thì nó thêu dệt thành hàng thành đống. Mới thấy, “vừa quên”, tức là bất giác thì vọng niệm liền tạm có ra chứ không có một chỗ cố định sản sanh ra nó. Và vừa giác trở lại thì nó không còn nữa mà cũng chẳng thấy dấu vết nó đi về đâu. Đó là biểu hiện cho chúng ta thấy rõ, vọng niệm là giả, không thật có.

Vậy là khi thoạt quên là mê, thì ngay đó là cái thức nó có ra và thoáng có suy nghĩ. Mà thức có thì vọng sinh. Và vọng tiếp tục khởi sanh là do anh thức này tiếp sức. Cho nên THỨC không phải sanh ra vọng mà nó là kẻ nuôi dưỡng vọng niệm này. Cái thức lúc này không hẳn là một sự phân biệt thô phù bên ngoài như chúng ta hiểu, mà nó là một sự âm thầm, trôi chảy nhỏ nhiệm nuôi dưỡng sự sanh khởi liên tục của vọng niệm. Giống như từ xa nhìn thấy dòng thác trắng xóa như dải lụa rồi mình tưởng nó không động, nhưng đến gần nhìn kỹ mới thấy nó đang chảy đều và dệt thêu liên tục. Các thiền sư gọi nó là thức thần. Thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm có nói:


Học đạo chi nhân bất thức chân,
Chỉ vị tùng tiền nhận thức thần.
Vô thủy kiếp lai sanh tử bản,
Si nhân hoán tác bản lai nhân.


Nghĩa là:


Học đạo mà không tỏ lẽ chân,
Bởi tại lâu rồi nhận thức thần.
Vô số kiếp rồi, gốc sanh tử,
Người ngu lại gọi chủ nhân ông.


Ví dụ như khi bậc hộp quẹt châm vào tim cây đuốc dầu thì ngọn lửa cháy bùng lên. Ngọn lửa không phải do dầu sanh ra, nhưng chính dầu là kẻ nuôi dưỡng, duy trì ngọn lửa tồn tại. Nếu dùng miệng để thổi vào ngọn lửa thì chỉ làm cho nó bùng cháy mạnh hơn thôi. Muốn cho ngọn lửa tắt, chúng ta phải làm gì? Chỉ cần rút hết dầu thì lửa tự nó tắt. Cũng vậy, ngay thể tánh ban đầu của mỗi chúng ta vốn tự không vọng. Nhưng vừa thoạt quên, bất giác thì vọng niệm chợt có ra. Thức không sanh ra vọng, nhưng thức lại nuôi dưỡng duy trì vọng niệm. Chúng ta can thiệp vào vọng niệm chỉ là vô ích. Bởi vì thức còn thì niệm còn, và càng can thiệp vào vọng niệm thì thức nó càng được mạnh thêm, giống như càng thổi lửa thì ngọn đuốc càng phừng phừng cháy mạnh. Vậy thì chúng ta không theo vọng niệm là được, chứ không cần can thiệp trên nó nữa. Phương pháp hữu hiệu là phải ngay anh chàng thức thần này mà trị là xong. Khi thức bặt thì niệm dứt, chân trời giác ngộ sẽ mở ra, cũng như dầu hết thì lửa tự tắt. Phương pháp tốt nhất là đừng đụng đến ngọn lửa mà phải rút dầu ra thì đèn sẽ tắt.

Nhưng làm thế nào để diệt được cái thức thần? Vừa khởi làm gì, làm thế nào thì ngay đó chính là bản thân của thức thần rồi. Nó giống như khối u ác tính, vừa đụng dao kéo là nó di căn, nhưng để đó thì chúng ta bị bệnh hoạn. Như vậy, làm sao diệt được thức thần kia?

Không nên can thiệp trực tiếp lên nó mà chúng ta phải tìm cái gì mà nó không ưa, nâng cao cái đó lên thì tự nó bị hạ thấp xuống. Cái đó là GIÁC. Hễ anh giác xuất hiện thì anh thức này yếu đi. Khi anh giác có mặt càng cao thì anh thức này lại càng bị suy yếu. Đến khi sức công phu đủ lớn, bất chợt sức GIÁC vụt tăng thì bỗng dưng cái THỨC chết bặt, vọng niệm tự nó tan biến hồi nào không biết, ngay đó CHÂN TRỜI GIÁC NGỘ liền mở ra, mới thấy Phật pháp rất diệu kỳ. Lâu nay tu hành, ăn nói, làm lụng, công phu đủ điều chỉ giống như một người ở trong mộng tạo tác. Lúc này, trong mọi sinh hoạt Hằng ngày, chỉ cần sống ngay đó thì vốn nó tự tịnh, tự định, sáng biết thênh thang trùm khắp, mọi thứ không còn là vọng mà là DIỆU DỤNG CỦA TRÍ.

Trong Kinh nói, đức Phật là bậc nhất thiết trí, tức là bậc có trí thấy biết tất cả, nhưng có phải là vọng tưởng không? Vì đức Phật biết là thấy biết bằng thể sẵn sáng trùm khắp không động nên cái biết tất cả này trở thành diệu dụng của trí chứ không phải vọng động sanh diệt như chúng ta. Chúng sanh biết đủ thứ, nhưng do chưa thoát khỏi thức thần nên biết theo tình thức phân biệt vọng động, vì vậy nó chỉ là trần lao phiền não, vọng động sanh diệt của chúng sanh. Diệu dụng thì an lạc, giải thoát, tự tại trong sanh tử. Vọng động thì trôi lăn trong sanh tử luống chịu khổ đau.

9. ỨNG DỤNG VÀO SINH HOẠT HẰNG NGÀY.

Trong Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói với Ngài A nan: "Ta ấn ngón ngón chân, đại địa phát quang. Ông vừa khởi tâm, trần lao dấy trước." Đức Phật là bậc đã giác ngộ nên làm điều gì cũng không ra ngoài một tánh tròn đầy giác sáng bất động, nhất cử nhất động đều là diệu dụng của trí. Còn Ngài A nan là đại diện cho tất cả chúng ta. Còn là phàm phu, còn thức thần, còn vọng động sanh diệt nên làm gì cũng đều nằm trong trần lao phiền não. Giống như con rùa khi ở dưới nước thì còn ướt, nhưng lên bờ rồi thì nó có làm gì cũng ráo khô. Còn con cá ở trong nước thì có vẫy vùng cách nào cũng không khỏi ướt. Hễ giác thì làm gì cũng là diệu dụng của trí, mà mê mờ thì làm gì cũng là vọng động, phiền não, trần lao.

Cho nên, bằng tâm giác sáng, không động mà làm mọi việc thì việc nào cũng đang phát quang. Còn nếu quên tâm này, vọng động mà làm thì liền đó phiền não trần lao dấy khởi. Nói đến chứng đắc có lẽ lớn lao quá, chúng ta chưa nghĩ đến, nhưng quý vị thử thể nghiệm ngay tâm mình thì sẽ cảm nhận được rất rõ ràng.

Cụ thể hằng ngày, trên mọi sinh hoạt, giác lại rồi làm, tỉnh lại rồi làm. Lên xe, tỉnh rồi đi. Lên lớp, tỉnh rồi nói. Ra chợ, tỉnh rồi mua đồ. Gặp việc, tỉnh giác rồi làm… Chỉ tốn khoảng nửa giây thôi, nhưng công việc có hiệu quả hơn nhiều và lại được tất cả.

Tu là sống ngay cái giác vô sanh để trở thành quả vị vô sanh. Cho nên đang giác là đang ở trong đạo tràng, là đang tu, không đi tìm cái gì khác. Trong tâm mỗi chúng ta thường có thói quen là tự nó ngấm ngầm luôn âm thầm đi tìm một cái gì đó. Hơi trống một chút là tìm cái gì lấp vào. Khi tu hành thì lại đi tìm cái giác ở đâu đó. Nghe nói vô sanh thì tưởng lập nên một cái tâm vô sanh để nhận chứ không biết khéo nhận lại. Nói nhận thẳng đến chỗ vô sanh, không một chỗ cho tâm bám để có thể sanh hiểu được, thì liền nghi ngờ, bởi chỉ muốn bám đeo thôi. Mà có cái để bám đeo thì đó là chưa rời khỏi thức thần, là nằm trong trần lao phiền não. Tu thì muốn giác ngộ đến chỗ rốt ráo chân thật, nhưng dụng tâm thì lại cứ bám đeo để nằm mãi trong phiền não trần lao. Thật không hiểu nổi! Đó là cái mê lầm của chúng sanh đã nhiều đời nên nó sâu dầy quá rồi. Bây giờ phải kiên trì, tỉnh giác thường xuyên thì công phu tu tập mới có công hiệu.

Ngay khi sống trở lại tâm thể giác sáng an tịnh thì nó sẽ tự biết nên làm gì. Chúng ta không cần phải tính toan suy nghĩ, nhưng nó tự sáng biết và bền bỉ hơn tâm suy nghĩ rất nhiều. Sống được như thế là chúng ta đang dùng TÂM KHÔNG ĐỘNG để làm nên tất cả trở thành diệu dụng. Còn dùng TÂM ĐỘNG, tâm vọng tưởng nghĩ suy để làm thì đó chỉ là VỌNG TÌNH sanh diệt mà thôi. Diệu dụng thì giải thoát, an vui. Vọng tình thì khổ đau phiền não. Cho nên các Ngài xưa thường nói: Phút chốc tạm quên tâm giác này thì liền đồng với người chết. Nếu ai công phu mạnh mẽ cảm nhận được như quý Ngài thì quý vị sẽ cảm nhận được sự an lạc, giải thoát ngay trong đời sống hằng ngày một cách rất rõ ràng.

Như dưới kia có cả ngàn đứa bé đang đùa chơi. Nếu chúng ta đứng lặng mình trên lầu nhìn xuống thì sẽ trông thấy toàn thể cả ngàn đứa trẻ, thấy hết các hành động, vẻ mặt của chúng nó không sót đứa nào mà mình vẫn an nhiên không động. Nhưng nếu xuống đùa chơi với nó thì chúng ta sẽ bị cuốn hút loạn động như thói trẻ con và chỉ thấy được chừng mười đứa quanh ta thôi. Những đứa trẻ là dụ cho trăm ngàn công việc hằng ngày mà chúng ta phải đối diện. Nếu bằng tâm tỉnh lại, giác sáng rồi làm thì tâm đó nó trên tất cả các việc, không bị hòa tan bởi sinh hoạt. Nó rất thông minh, nó sẽ biết nên làm gì mà tự nó vốn không động, làm tất cả mà đang giác, đang tu và công việc có hiệu quả hơn nhiều. Sống được như thế là được tất cả. Nếu dùng tâm suy tư nghĩ tưởng để làm thì bị loạn động. Đó là nguyên nhân khiến cho con người rơi vào trần lao phiền não, công việc có hiệu quả thấp hơn và không giải quyết dứt hẳn được khổ đau, phiền não.

Trong bất cứ công việc hay trường hợp nào, qúy vị chỉ cần một trạng thái giác sáng toàn thể để thấy biết, để làm tất cả việc thôi, cứ kiên trì tu tập như thế lâu ngày thì chúng ta sẽ cảm nhận được điều kỳ diệu. Hay lắm!

10.KHÔNG ĐÒI HỎI CẢNH DUYÊN THUẬN THEO MÌNH.

Thường ngày chúng ta hay phán đoán mọi việc qua bản ngã của mình. Trời nắng thấy khó chịu quá, nhưng không biết rằng nắng đang cần cho người phơi lúa. Trời mưa ướt át khó chịu quá, nhưng không biết nó cần cho người làm ruộng. Sao ngủ chung phòng mà cứ đóng cửa hoài ngột ngạt bực bội quá, mà không hề quan tâm người bạn mình đang bị trúng gió nên cần sự kín gió hơn… Sống bằng bản ngã, quen phán đoán qua bản ngã, muốn mọi thứ phải theo mình, bị cái ngã nó làm chướng ngăn nên không quen thích nghi với nghịch cảnh. Khi nghịch cảnh đến thì khổ sở và mong đợi nó qua đi theo ý mình, từ đó khổ đau. Bây giờ khéo dụng công một tí. Ngay khi đang gặp việc bất như ý, mình đừng trách tại sao như vậy, không thèm mong muốn nó qua mau, đừng nghĩ phải chi nó không đến mà nên tỉnh táo, tìm sự trong lặng trên nó để xem coi, ngay đây Phật pháp là gì? Phật tánh đang ở chỗ nào để sách tấn buộc mình phải tiến tới. Làm như thế như là mình bị ép, nhưng phải ép mình thì tự ngã mới tiêu, mới không cản trở và dễ tiến đạo. Tự mình khắc tâm làm đúng, khác hơn là đòi hỏi người khác hay hoàn cảnh đúng như ý muốn của mình. Đòi hỏi như thế chỉ là tô bồi, nuôi dưỡng cho tự ngã chướng đạo của mình lớn thêm mà thôi. Nhưng làm đúng mà cố chấp thấy tôi làm hay cũng là nuôi lớn tự ngã này. Điểm chính yếu ở đây là chặn hết các đường, không có chỗ cho tâm sanh khởi. Như là: đừng nghĩ lui phải chi đừng làm như thế, phải chi biết trước thì nên làm thế kia… Đừng thèm mong nó qua, đừng thèm quan trọng nó, không có một niệm bào chữa dung dưỡng dù đó là niệm thiện, niệm đúng… Tất cả không có đường cho niệm phát sinh và chỉ tìm lấy sự lặng trong sáng ngời trên nó, ngay đó đạo lý chân thật sẽ sáng ngời. Đó cũng là cách chúng ta thực tập giác ngộ ngay cảnh thế gian. Quý vị cứ thử thực tập đi rồi sẽ thấy nhiều thú vị!


11. KIỂM TRA CHỖ THƯỜNG HAY QUÊN, BẤT GIÁC.

Thông thường khi đang ở một trạng thái cố định như ngồi chẳng hạn thì mình dễ làm chủ. Nhưng khi bắt đầu chuyển sang động thái khác như là bắt đầu đi thì chúng ta lại xem thường và quên, bất giác ngay đó có ra. Các bậc cổ đức nói: Họa hoạn nó nằm nơi không nơi chốn, nhưng nó sẽ phát ra nơi chỗ mình khinh suất (xem thường). Tức là hiện nay ngồi đây thì mình không thấy nó ở đâu cả. Nhưng bước ra, có khi vừa thoáng xem thường sơ suất chút xíu là sẩy chân liền… Vậy thì không cần quan tâm họa hoạn có hay không mà phải ngay chỗ khinh suất, xem thường của mình để chế ngự. Cái họa hoạn của khinh suất, bất giác nó không chỉ ở nơi sự thể một đời, mà điều quan trọng lớn lao hơn nữa là nó còn nhấn chìm chúng ta đi trong sanh tử chịu khổ triền miên hết kiếp này sang kiếp khác. Biết vậy thì chúng ta phải để tâm, khắc tâm ngay chỗ khinh suất, đừng để cái bất giác hoạt động lâu ngày thành thói quen rồi chúng ta luống phải chịu khổ vô ích.

Trường hợp ngược lại là làm một việc gì đó cố định hoài một chỗ thì chúng ta cũng dễ chủ quan, cứ êm đềm thả mình theo công việc mà quên giác. Ví dụ: Đang ngồi xem tivi hay làm máy tính say sưa, đang chú tâm vào công việc, không nghĩ đến việc khác và ngỡ mình đang an tịnh thế là được rồi. Bỗng nhiên cúp điện, máy tắt phụp, chúng ta giựt mình. Ngay khi giựt mình, mới biết trước đó mình đã quên chính mình mà theo việc bên ngoài. Dù có chú tâm đến đâu mà bỏ quên chính mình theo việc bên ngoài thì cũng là bất giác, không giác sáng. Nếu người luôn ở bản vị giác sáng để làm, không theo công việc bên ngoài thì khi bất chợt cúp điện, máy tắt phụp, họ bình thường, không một chút gợn giựt mình hay thất vọng như vậy.

Giống như con rắn cứ thả tự do thì nó bò ngoằn ngoèo. Nếu cho nó vào ống tre thì sẽ đi thẳng. Tâm ta cũng vậy. Nếu cứ buông thả không chăn dắt, nó sẽ thành thói quen ngông cuồng khiến chúng ta không làm chủ được. Nếu khéo thực tập giác sáng thường xuyên như thế lâu ngày, tâm chúng ta sẽ thuần thục, định lực sẽ đủ lớn và có tác dụng tốt.

12. SỐNG NGAY TÂM GIÁC SÁNG LÀ SỰ GIÁC NGỘ, AN LẠC, GIẢI THOÁT, TỪ BI TỰ SẴN ĐỦ.

Ví dụ khi chúng ta phải đi qua một sa mạc nắng nóng và khát nước. Nếu gặp ai cho một cốc nước lã hiếm hoi thì quý vị uống vào đâu thấm đến đó, rất ngon. Nhưng khi về Thành phố lớn được bạn bè đãi đằng uống ăn những món ngon vật lạ no nê rồi, nhỡ gặp ai mời một cốc nước lã, chúng ta vì nể lịch sự phải uống, nhưng có còn cảm thấy ngon không? Uống được, nhưng không ngon. Khi đang ở giữa sa mạc đói khát thì rất ghiền cốc nước lã. Có ai đó bảo nó là huyễn hóa, bỏ đi, có thể vì nể phục hay bị ép thì cố bỏ, nhưng trong lòng thì thèm lạt, khát khao, cam tâm mà bỏ chứ không đành. Lúc về thành phố lớn ăn uống đồ thượng vị no nê tràn trề rồi thì đối với cốc nước lã, uống và không uống giống nhau, không có gì phải cần bàn bạc bỏ hay không bỏ.

Cũng vậy, những thứ hơn thua, được mất, phải quấy, buồn vui, thành bại, yêu ghét trong đời chỉ là những cốc nước lã. Nhưng vì con người ta đang còn quá đói khát với thượng vị chánh pháp, chưa một lần được nếm thượng vị chánh định, giác ngộ. Họ không thấy gì ngoài những thứ nhang nhảng trong trần đời mà họ đang thấy nên chỉ biết chộp lấy và ngấu nghiến ăn rồi cho là ngon, là dở, là khổ, là vui rồi quan trọng mà không chấp nhận nó là đồ bỏ như cốc nước lã. Kết quả cuối cùng phải chịu mê mờ, trầm luân đau khổ triền miên không có ngày ngoái đầu lên nổi. Nếu chỉ một lần nếm được thượng vị thiền định, giác ngộ, an lạc thì mới thấy những thứ kia không còn đủ giác trị tác dụng chi phối mình. Lúc này, có và không có giống nhau, không hề có dấu vết tâm trên đó. Như người đã ăn uống món thượng vị no nê rồi và thảnh thơi nhàn xem cốc nước lã chơi.

Sống ngay tánh giác tròn đủ đó, thì chúng ta hằng giác sáng, thênh thang trùm khắp mà không động. Đó là tính chất GIÁC NGỘ.

Ngay tánh giác sáng đó, tự chúng ta cảm nhận được một niềm an lạc mênh mông, tràn đầy, nhẹ nhàng, thanh thoát. Đó là tính chất AN LẠC.

Khi ấy, những thứ trong đời tự mất giá trị, không còn đủ sức tác dụng chi phối mình thì còn có gì trói buộc được nữa? Ngay đó tự là giải thoát mà không hề có tâm xua đuổi hay lấy vào. Đó là tính chất GIẢI THOÁT.

Những hành động thiếu văn minh ngoài đường thường khiến chúng ta bực bội, nguyền rủa… Nhưng bây giờ thấy thế tự dưng sanh tâm thương cho họ. Vì sao cũng là con người mà họ không được sáng suốt, an ổn, sung sướng, trầm lắng, thanh thoát như mình, lại còn mê mờ, ngông cuồng, có những hành vi làm trò cười cho người khác mà cứ ngỡ là oai hùng cái thế? Thương và muốn tìm cách để giúp cho họ được như mình. Bằng vào sự giác ngộ để thương về sự mê lầm của chúng sanh và muốn cứu giúp họ đạt được giác ngộ, an vui như mình. Đó chính là đúng nghĩa TỪ BI.

Mới thấy, chỉ cần sống trở về bản tâm giác sáng trùm khắp không động thì chính đó là GIÁC NGỘ. Từ đó, các đức tính AN LẠC, GIẢI THOÁT, TỪ BI tự nó có ra một cách tròn đủ trong ấy. Mới hay ra tâm thiền thật nhiệm mầu! Đây cũng là chỗ Thiền sư Huyền Giác đã nói: "Lục độ vạn hạn thể trung viên" (sáu độ muôn hạnh đều sẵn đủ trong ấy) là vậy. Chỉ sống trở về thì tự nó tròn đủ mọi thứ cao thượng.

13. HAI LỐI CĂN BẢN THỂ NHẬN TỰ TÁNH.

Lối vào đạo thì nhiều, nhưng đường vào thiền thì không cửa, miễn sao nhận ra và sống về tự tánh vốn tự sáng tịnh nơi chính mình thì khế hợp thiền. Bởi nhắm thẳng tự tánh mà không câu nệ kẹt trên phương tiện, nên thiền tuy có phương pháp mà không thành phương một phương pháp cố định. Vì vậy, theo kinh nghiệm quý thầy, có hai phương pháp tạm dùng để có thể đưa hành giả thể nhận bản tánh.

Một là dẹp sạch mọi thứ, tiêu trừ phiền não tập khí rồi thì thể tánh tự hiển hiện ra, sau đó tiếp tục tùy duyên tiêu trừ các vi tế hoặc. Cách này giống như người còn đừng từ xa, chưa thấy nhà mình và phải đợi dọn dẹp sạch lùm bụi gai góc xong mới đến nhà và vào được, sau đó tiếp tục dọn dẹp đồ đạc trong nhà.

Hai là ngay trên mọi hoàn cảnh mà khéo léo thể nhận lại tự tánh vốn sáng không động. Đồng thời tùy duyên tiêu trừ tập khí mà không thấy có tập khí có thể tiêu trừ. Vì không thấy có tập khí thật. Cách này giống như đi máy bay, một bay thẳng tiến vào nhà, sau đó từ nhà phát dọn lùm bụi gai góc ra sau.

Giống như chúng ta đang đứng trước một ngôi nhà đồ đạc ngổn ngang. Cách thứ nhất là khuân vác dọn dẹp đồ đạc theo thứ tự từ bên ngoài trước rồi tiến dần vào trong. Sau đó dần dần mới vào ở trong nhà mình. Cách thứ hai là không cần đứng bên ngoài mưa nắng gió bụi, cứ khéo nhận ra một chỗ trống nào trong nhà là đặt chân vào đó và tiến thẳng vào ngay trong nhà, ở trong ấy rồi dọn ra.

Tương tự như đã nêu trên, hai Ngài Thạch Đầu Hy Thiên và Ngài Mã Tổ Đạo Nhất cũng có hai cách dẫn dắt người học rất đặc biệt.

Cách dạy người của Ngài Thạch Đầu là loại trừ tất cả, một vật cũng không. Dù đó là bồ đề, niết bàn, giải thoát cũng không dựng lập, không còn chỗ nương, đưa học nhơn đến chỗ bặt hết tình thức thì trí giác tự khắc sống dậy, hiện bày.

Nhưng Ngài Mã Tổ thì chủ trương thu vào. Khéo nhận và sống thẳng tự tánh sáng biết bất động thì tất cả mọi thứ đều là Phật pháp.

Đây là hai lối cơ bản vào đạo. Chúng ta cảm thấy lối nào hợp với căn cơ của mình thì ứng dụng theo lối ấy. Chỉ là giác sáng là được.

Chúng ta cũng có thể khéo léo vận dụng đồng thời cả hai. Cụ thể chúng ta biết rõ tất cả các pháp đều là huyễn hóa, buông bỏ tất cả, không theo để nhận lại trí giác. Nhưng nếu buông bỏ lâu ngày mà thấy nó chưa sạch, cứ còn mãi thì chúng ta vẫn cứ vận dụng công phu buông bỏ để ngăn ngừa bên ngoài. Mặt khác, cái nào còn tồn tại, khó buông bỏ thì đừng khởi thêm gì vào đó cả, chỉ là giác sáng trở lại. Cụ thể là xem lại coi, khi biết vọng, biết những thứ đó huyễn hóa, không thật, là mình biết theo vọng, biết về những thứ đó, hay là tự mình đang sáng biết? Trên cảnh cũng vậy. Nếu biết theo vọng, biết theo cảnh đó là quên tánh giác sáng và bị vọng động, không thắng được vọng. Nếu không thèm biết theo nó, mà chỉ rõ suốt là mình đang tự sáng biết toàn thể, đó là chúng ta đang tranh thủ ăn đồ ngon thượng vị vào. Theo thời gian công phu thuần thục, giống như đồ ngon được ăn no đủ rồi, thì vọng tình ngoại cảnh chỉ như một cốc nước lã, tự nó mất giá trị với người đã no đủ đồ thượng vị ngọt ngon. Không cần loại bỏ, nhưng nó lại không còn đủ sức chi phối mình. Không còn nói đến vọng hay chơn, lấy hay bỏ, có hay không, mà vọng tình đã tự vắng bặt. Không phải ngay cảnh cũng không phải lìa cảnh để tìm giác ngộ, mà sự giác ngộ đang hiển hiện trùm khắp mọi lúc, mọi nơi. Như cốc nước lã trước người đã ăn uống no món thượng vị ngọt ngon, tự cốc nước lã không còn giá trị, người này không còn có tâm ngon dở trên đó, mà nó được trả lại nguyên bản của nó, nước lã là nước lã, không ngon cũng không dở, không lấy cũng không bỏ. Đây chính là chỗ bất tức bất ly. Ngay đó đạt được như như bất động, tự tại trên mọi hoàn cảnh. Khéo léo vận dụng một chút thì công phu sẽ đắc lực.

14.VÔ SỞ ĐẮC.

Đây là cách ứng dụng công phu tu tập thấy nhẹ nhàng, hay, nhưng có người vẫn cho là khó nhận. Bởi con người ta thường thích có một chỗ để bám đuổi theo và nhận lấy. Nhưng nếu còn có một chỗ để nhận là còn có đối tượng bị nhận và mình là người nhận. Đó là rơi vào hai bên, còn sanh diệt, còn có sở đắc, chưa phải đạt đến chỗ rốt ráo đạo lý chân thật. Kinh Pháp Hoa gọi là mới đến hóa thành giữa đường, chưa đến bảo sở rốt ráo. Cho nên quý Phật tử nào ham có chỗ để tâm nương về dụng công cho dễ, muốn có một sự chứng đắc gì đó để khuyến khích mình tu…, quý thầy thường nói, đó là quý vị muốn ăn mì gói dở tệ mà không biết thưởng thức món thượng vị tuyệt vời. Thật đáng tiếc!

Nếu khéo thể nhận thì không có sở đắc, không có một chỗ cho tình thức bám thì cái chân thật sẵn đủ tự hiển hiện ra, đó mới là cứu cánh. Bởi nếu có một chỗ để nhận là nhận cái gì đó bên ngoài rồi, không phải là chính mình. Nhưng cái thể tánh chân thật ấy là nơi mình, là chính mình thì chỉ khéo thầm thể hội thôi chứ không thể có một cái, một chỗ để nhận lấy được.
Nếu nói tu là có chứng đắc thì đắc cái gì? Nếu thấy có chỗ để chứng đắc thì có người đang đắc, tức là đã có sở có năng, rơi vào hai bên sanh diệt. Cho nên, còn thấy có chỗ chứng đắc là còn rơi vào sanh diệt, vẫn còn chỗ xen hở cho thức thần sinh. Dù sở chứng kia là không động, nhưng nếu chưa dứt hẳn thức thần thì vẫn còn cơ hội để nó quay lại vọng động và rơi vào sanh diệt, rồi phiền não, khổ đau.

Khi thái tử Sĩ-đạt-ta học đạo với vị tiên nhơn cuối cùng là Uất-đầu-lam-phất và chứng được tầng định cuối cùng mà vị tiên nhơn này đã chứng được, đó là phi tưởng, phi phi tưởng xứ. Ngài hỏi: Định này là có ngã hay không ngã? Nếu nói là không ngã thì không thể nói phi tưởng, phi phi tưởng xứ. Có nghĩa là không phải có tưởng mà cũng không phải là không có tưởng, tức là còn có một cái tưởng nhỏ vi tế. Nếu không phải là vô ngã thì có ngã. Vậy ngã này là hữu tri hay vô tri, (tức là có biết hay không có biết)? Nếu ngã này là không biết thì đồng với cây đá. Nhưng con người mình không thể là cây đá được. Mà nếu ngã là có biết là có phan duyên. Vì có biết, tức là biết về một cái gì đó, là còn phan duyên. Mà còn phan duyên là còn sanh tử, chưa thoát khỏi sanh tử. Vị tiên nhơn này không đáp được, Thái tử từ giã ra đi tự mình tu tập.

Biết một cái gì đó mà biết về nó, biết theo nó là đã quên mất chính mình, là phan duyên, là vin theo cảnh bên ngoài, còn có chỗ cho tình thức sanh khởi trở lại, là chưa thoát khỏi sanh tử một cách rốt ráo.

Vẫn biết, nhưng không biết theo, không biết về một cái gì đó bên ngoài mà đang tự mình là sáng biết, không động. Tâm lặng mà sáng biết này, khi có vật nó cũng đang rõ ràng sáng biết mà không phải biết về sự vật. Khi không vật nó cũng vẫn là một tánh sáng biết trùm khắp đó, không đổi, không động. Chỗ đó không phân biệt thấy có người biết và cảnh bị biết. Hai bên đã không lập thì cái gì phan duyên cái gì? Vì vậy, đây cũng là biết, nhưng tỏ rõ cái biết này thì biết mà không phan duyên. Khi sống bằng tánh biết không kẹt hai bên, không có chỗ phan duyên, không còn chỗ cho thức sanh thì bản tánh chân thật hiện tiền, sanh tử từ đâu mà có? Cho nên đây là cái biết của giác tánh vô sanh, là cái biết vượt lên trên sinh tử.
Ví dụ khi quý vị nhìn thấy cái ly này thì cái ly này có phải là con mắt của mình không? Con mắt là cái đang thấy, còn cái ly là vật bên ngoài bị thấy. Cái ly đâu phải là con mắt của mình, phải không? Cũng vậy, khi chúng ta tu mà thấy ánh sáng, thấy có sở chứng gì đó thì những thứ đó là cái bị tâm mình thấy, nó đã biến thành cái bị thấy ở ngoài tâm, nó không phải là TÂM CHÂN THẬT nơi chính mỗi người.

Kế nữa, trên đời này, nói về vật chất thì cái gì quý nhất? Vàng, ngọc, kim, cương, đúng không? Bây giờ đem những thứ quý đó xây nhuyễn rồi bỏ vào trong con mắt mình, nó có chịu được không? - Không. Con mắt sẽ bị xốn và phải gấp gấp lấy ra, đúng không? Con mắt không phải là quý hay tiện, nhưng nó phải là một sự thanh khiết trong ngần chính nó. Nó không chấp nhận bất kỳ một vật gì bên ngoài dù đó là quý hay tầm thường. Tâm thể chúng ta cũng vậy, vốn nó xưa nay không một vật, là một tự thể sẵn tịnh sáng biết trùm khắp thênh thang không giới hạn. Nó phải là chính nó. Nếu có một thứ gì đó cho mình thấy được dù đó là hào quang hay là một sự chứng đắc thì chỉ cũng là những thứ tạm bợ bên ngoài, không phải bản tâm.

Dù cho là có chỗ thanh tịnh, nhưng mà còn niệm thầm thầm thấy có một chỗ thanh tịnh để gìn giữ thì chưa khỏi phan duyên. Dù không động, nhưng chưa rời niệm thầm giữ đó, trong nhà thiền gọi là trong hông ngực vẫn còn một vật ngại, chưa thông. Nếu công phu đến đây rồi thì hành giả phải phấn phát tinh thần, tiếp tục công phu mạnh mẽ thì mới tiến lên, không bệnh. Còn chấp vào chỗ đó cho là cứu cánh thì dễ sanh bệnh, rơi vào tà kiến. Khi dụng công, nếu chúng ta khéo nhận thẳng tánh toàn thể sáng biết thì sẽ tiến thẳng tắt đến chỗ rốt ráo, vượt qua, không đi ngang qua lớp màn mỏng thanh tịnh tạm thời vi tế đó, nên không rơi vào các ma chướng trong công phu. Rất linh hoạt.

Nếu chúng ta chấp vào sở chứng thì có tâm sinh, đó là có chỗ cho nội ma tự sanh khởi và ngoại ma thấy tâm nên hành giả dễ đi vào đường ma, nguy hiểm. Ngược lại, nếu quý vị không sanh tâm khởi niệm gì hết, sống thẳng bản tánh toàn thể sáng biết ngay đây thì tánh thể hiện tiền. Chính mình hiện tiền, không phải cái gì bên ngoài vào nên được đó là không chỗ được, không có sở đắc nên không có chỗ cho ma chướng thấy tâm, ngoại ma và ngoại ma nhằm vào dấu vết nào để phát khởi? Công phu như thế rất nhẹ nhàng, thảnh thơi, tu mà như là không tu gì cả.

Nếu chưa sáng tâm mà tu luyện mong cầu có thần thông huyền bí thì chư vị Tổ sư nói, đó cũng chỉ là yêu thuật của tà ma ngoại đạo. Rõ ràng, tâm thể kim cang chưa đạt được là còn động, còn phiền não, còn sanh tử mà đi lo những thứ bên ngoài đó thì đâu có giải quyết gì được việc lớn sanh tử? Ngược lại còn bị nó mê hoặc khiến mình lầm đường lạc lối nữa là khác. Nhưng nếu đã sáng tột bản tâm và sống miên mật thì những thứ đó tự nó sẵn đủ và siêu xuất hơn những người tu luyện bình thường. Cụ thể là thần lực và thần thông của Phật và các Thánh đệ tử của Ngài vượt hơn những ngoại đạo tu luyện thần thông rất nhiều.

15. CÓ DẤU VẾT CỦA TÂM, CÓ CHỖ ĐƯỢC THÌ MA CHƯỚNG CÓ CƠ SỞ PHÁT RA.

Ví dụ nhiều năm tháng khổ cực luôn vay nợ hàng xóm nhiều quá không nhớ nổi. Hôm đó tình cờ trúng số được 500 triệu, mừng quá nên tuyên bố mọi người đến nhà để mình trả nợ. Mình mắc nợ thì cả mười tỷ, mới trúng có 500 triệu mà tuyên bố trả hết. Người ta đến nhà đòi mà không có đủ trả cho họ thì có phải bị họ đánh đập cho không? Đó là bị khảo.

Cách thứ hai là chúng ta không cần tuyên bố, cứ làm cho có tiền bỏ trong tủ đi. Có trúng số cũng bình thường, không cần sanh khởi gì cả. Hôm nào ai đến đòi năm ba trăm gì đó, mình có sẵn tiền nhiều và tự động trả một cách bình thường mà không thấy có nặng nề là mình đang trả nợ gì cả. Đó là trả mà không trả.

Nợ nần nghiệp chướng nhiều đời của chúng ta cũng vậy. Khi mình tuyên bố hay phát nguyện cho tôi trả hết nợ rồi tôi tu, thì có tâm sanh, có dấu vết, có chỗ cho nó thấy và đến đòi tới tấp. Ân oán gian hồ tạo nên nghiệp chướng vay mượn nhiều đời quá nhiều mà mình đâu có biết! Trong khi đó mới tu chút chút, đạo lực chưa có bao nhiêu giống như tiền còn quá ít mà đòi trả nợ thì bị khảo, bị chướng duyên ngập tràn không thể tiếp tục công phu được nữa. Điều này đã có nhiều người mắc phải rồi. Đang khỏe mạnh bỗng dưng ham tu cho mau liền tuyên bố, phát nguyện tu quyết liệt cho mau có kết quả. Liền sau đó bị bệnh nằm liệt giường, bác sĩ không thể trị lành được. Nhưng xin rút lại nguyện thì bệnh lành ngay. Bởi tâm vừa sanh thì liền thành tướng trong tâm, là có chỗ cho ma chướng đòi nợ. Nếu khéo dụng tâm cho thật chín chắn, tâm đừng sanh thì tốt. Cứ bình thường. Nghiệp có tới chúng ta cũng đừng thèm khởi nghĩ có một loại nghiệp thật đến để mình phải tiêu trừ. Cứ bình thản, vô tâm thì nghiệp kia tự không dính dáng, thế là chúng ta đang tu rất nhẹ nhàng mà miên mật. Đạt chỉ là tự mình thầm đạt được cái sẵn có nơi chính mình thôi, có phải ai cho cái gì bên ngoài đâu mà phải sanh tâm động niệm. Ở đây quý thầy không hề có ý phản bác lại tâm phát nguyện đáng quý và cao thượng của quý Phật tử. Nhưng theo kinh nghiệm cá nhân trong khi công phu thì quý thầy thấy không sanh tâm động niệm mà vẫn công phu mãnh liệt thì đạt được kết quả dễ dàng mà không bị các chướng duyên quấy nhiễu mất thời gian. Phải nhớ rằng, sống thẳng bằng chỗ vô sanh là đang tu. Thế thôi. Còn các tâm khởi khác dù đó là thấy có chứng đắc cũng đều rơi vào sanh diệt, có chỗ để ma thấy, chúng ta sẽ bị thử và không khéo léo, đủ lực thì sẽ bị thua trận.

Ngài Trần Thái Tông nói: “Cơ liễu ngộ quỷ thần tìm không thấy.” Câu này rất quan trọng. Người đã được liễu ngộ thì không cần bàn tới, vì chính vị ấy đã biết dụng tâm thế nào. Chúng ta là những người còn đang trên đường dụng công tu tập, phải biết dụng thẳng đến cơ liễu ngộ quỷ thần không thể tìm thấy tâm. Vừa sanh khởi tu cho có kết quả, quỷ thần nhìn thấy tâm liền. Dừng lại đi! Vừa sanh khởi thấy có nghiệp chướng thật để tiêu trừ và mong sớm tiêu trừ được nghiệp chướng, vậy là đã vụng về, quỷ thần nhìn thấy tâm rồi. Dừng lại! Đừng sanh tâm nữa! Nghĩa là, đừng sanh tâm có dấu vết cho người khác nhìn thấy là mình đang công phu tu tập thì mọi thứ tự nó tiêu, chứ không phải lập ra một thứ nghiệp báo gì đó cho là thật rồi phải đi tiêu trừ nó. Cứ như thế! Và nhỡ nó có đến, chúng ta cứ bình thường, coi như không, không sanh tâm thì mọi chuyện sẽ nhẹ nhàng. Giống như trúng số mà không cần tuyên bố, cứ bình thường, âm thầm làm thêm ra cho nhiều tiền, có ai đòi thì chúng ta trả từ từ rất nhẹ. Cũng vậy, chúng ta cứ âm thầm nỗ lực công phu miên mật cho định lực mạnh đi, rồi thỉnh thoảng có ai tới đòi nợ, chúng ta sẵn sàng trao cho họ những đồng lẻ, rất nhẹ, không có gì đáng phải sanh tâm, trả mà không trả.

Vi tế hơn một chút nữa. Ví dụ khi vừa nhìn thấy cái ly này, chúng ta nhỡ lao theo đẹp xấu rồi sực tỉnh tự nhắc mình, phải quay lại. Có tâm "phải quay lại" là đã thừa ra một pháp "phải quay lại" đó rồi. Giống như con rùa dùng cái đuôi để xóa dấu vết mình trên bùn lầy, càng xóa càng thêm nhiều dấu hơn nữa. Ngay đó, không cần làm gì hết. Vừa sanh khởi, dừng, không sanh. Hết sanh. Thế là vô sanh. Thế là đúng pháp. Thế thôi. Tất cả mọi thứ nhỡ quên, chỉ cần tỉnh, thế là xong. Đơn giản! Tạm thời lưu ý ba điều căn bản:

1.    KHÔNG THÊM: Ví dụ mình nhìn trời mưa. Vừa quên. Liền đó không thêm. Ví dụ mình lỡ quên. Không thêm. Ngay đó liền trả lại tánh thể toàn thể sáng biết trùm khắp, không động.

2.    Điều thứ hai là KHÔNG TRỤ: Trên các cảnh và sinh hoạt, chúng ta thấu suốt qua tất cả, không dừng trụ quan tâm trên bất kỳ cảnh sắc hay hoàn cảnh thuận nghịch nào. Bên trong không thấy có một vết sở đắc để trụ và gìn giữ.

3.    Thứ ba là ĐANG GIÁC, KHÔNG QUÊN: Rõ suốt mình đang giác, không một vết mê mờ, không quên.

Lúc đầu thấy hơi khó dụng công, vì không có chỗ bám và nó như có một tiếng nói nhắc mình trong tâm. Nhưng điều quan trọng là mình phải dụng công trong hoàn cảnh tịnh cho ổn, sau đó ứng dụng tiếp trên cảnh động. Trong khi phải tiếp xúc với cảnh động thì mình phải quyết tâm, không nên đầu hàng với nó. Bởi đối diện cuộc đời là đối diện với trận chiến thật, cho ta những kinh nghiệm công phu sống động, chứ không phải trận chiến giả tưởng tạm đặt ra. Đừng mong cảnh này phải như ý mình. Phải nhìn thấy thật rõ Phật pháp ngay chỗ bất như ý mà ta đang đối diện. Khi qua rồi, chính cái đó sẽ giúp mình linh hoạt, tự tại hơn nhiều so với trong cảnh tịnh. Trên cảnh yên bình, thanh tịnh mà tu, nó cần cho chúng ta bồi dưỡng nội lực lúc đầu. Nhưng nếu cố chấp cứ phải ở trong ấy mới tu được thì bản tánh mình không được hoạt dụng tốt.

Không phải chúng ta chủ động đi tìm hoặc cố tạo ra cảnh nghịch cho mình tu. Vì như thế là đã có sanh tâm, là sai rồi. Điểm chính yếu là chỉ bình thường sáng tịnh, nếu cảnh nghịch hay cảnh thuận gì thình lình đến, chúng ta cứ lắng lại, sáng biết vô tâm, ngay đó nó tự mất giá trị, không chi phối được mình. Chúng ta phải có kinh nghiệm khéo léo để được linh hoạt. Chỗ này hơi chuyên nghiệp. Khó. Bởi nếu không khéo léo, vừa vụng về một chút là tâm nghĩ suy sanh khởi liền. Tuy nhiên, nếu thấy là khó mà không ứng dụng thì lãng phí quá. Cứ gan dạ dám trải qua nhiều thì sẽ có kinh nghiệm thôi. Người khác làm được thì mình cũng làm được.

16. DỤNG TÂM TRONG SINH HOẠT HẰNG NGÀY.

HỎI:

Xin thầy chỉ cho tụi con biết cụ thể hơn cách áp dụng công phu này trong sinh hoạt hằng ngày?

ĐÁP:

16.a. Mọi việc do tâm.

Thí dụ hôm nào đó chúng ta ra chợ hoặc lên công sở làm việc, gặp nhiều chuyện vớ vẩn không đâu làm cho mình bực bội. Cả một buổi làm việc căng thẳng. Trên đường về thì nóng bức. Về đến nhà bước vào với tâm thái đang bực bội không biết vì đâu… Nhỡ con cháu đi ngang trước mặt sơ ý thả cánh cửa đóng mạnh kêu một cái "rầm", quý vị có bực bội không? Một mặt vẫn biết con cháu vô tội, chỉ là hành động sơ ý nhỏ thôi, không đáng. Mặt khác thì không biết tại sao trong lòng cứ tự sôi máu lên, không tài nào kềm xuống được. Cho thấy, khi nội tâm không an ổn thì chúng ta không có năng lực sống, không làm chủ được mình, đã bị hành động đóng cửa kia ngự trị, chiếm lĩnh và chi phối khiến cho chúng ta bị thiêu đốt, đau khổ.

Ngược lại hôm nào đó ra đường gặp nhiều điều vui, mọi người đều ôn hòa, thân thiện, gặp khách quý từ xa mới về tặng quà… Về nhà con cháu chào hỏi ngoan ngoãn lễ phép, đưa khăn mát lau mặt, mời nước uống vừa ý… đang thảnh thơi, yêu đời, thoải mái. Lúc ấy nhỡ con cháu vô ý đóng cửa mạnh tay thì quý vị có cảm thấy khó chịu không? Bình thường, phải không? Đây là, khi nội tâm chúng ta ổn định, có sức sống thì không bị hành động đóng cửa kia chi phối, có mà như không, đó là biểu hiện của sự an vui, thanh thoát.
Hành động đóng cửa là một, nhưng tùy vào tâm thái của mỗi người mà sự diễn tiến sau đó có vui và khổ khác nhau. Hành động đó là ví dụ cho tất cả hoàn cảnh trong đời xảy đến với chúng ta hằng ngày. Nếu bằng vào một tâm thái loạn động, bất an thì thứ gì cũng có thể làm cho chúng ta khổ được hết. Nếu bằng vào một tâm thể an ổn, định tĩnh, giác sáng thì mọi thứ tự mất giá trị, không đủ sức chi phối mình. Đối tất cả hoàn cảnh thuận nghịch gì chúng ta vẫn an vui. Ngay tâm thể an ổn, định tĩnh, giác sáng là giác ngộ và các tính chất an lạc, từ bi, giải thoát từ đó có ra.

16.b. Dùng tâm nào để sống.

Khi đã biết rõ như thế rồi thì hằng ngày khi đối duyên xúc cảnh, điều đáng lưu tâm là chúng ta đang đứng ở vị trí nào để xử lý và làm các công việc, dùng tâm động hay tâm tĩnh, dùng tâm sanh diệt hay vô sanh để làm tất cả việc, để ứng xử mọi tình huống trong cuộc sống. Công việc không có lỗi, vấn đề là mình đứng trên đất bằng để ứng xử hay đứng trên sóng nước mà làm. Nếu ở chỗ vô sanh tuyệt đối mà làm thì sáng suốt, không động, tất cả mọi thứ trở thành diệu dụng. Còn dùng tâm sanh diệt để làm, để ứng xử, thì đó là rơi vào vọng động sanh diệt của chúng sanh. Nhân của vọng động sanh diệt thì đưa đến quả khổ đau của chúng sanh.

Cụ thể trong cuộc sống, khi tâm không an ổn, rối rắm, rất dễ gặp chuyện phiền não, kể cả chuyện nhỏ nhoi cũng làm cho mình căng thẳng. Như vậy bằng tâm loạn động mà làm thì mọi thứ nó chi phối mình. Đây là bị trói buộc, khổ đau. Ngược lại, cũng cùng một sự kiện đó xảy ra, nhưng chúng ta lặng lẽ, ổn định, sáng suốt, nhẹ nhàng, thanh thản thì tự nhiên nó bình thường, nó không đủ sức chi phối mình, nghĩa là chúng ta đang giải thoát. Như vậy ngay tâm ổn định thì mọi việc ổn định và chúng ta được giải thoát, an vui.

Tỉnh giác, tâm an tịnh tuyệt đối, trí tuệ phát huy đúng mức sẽ trào dâng một niềm vui ngập tràn, sẽ khiến chúng ta thấy mọi thứ vui trên đời không còn sức hấp dẫn, không còn giá trị chi phối nên ngay đó, chúng ta đã giải thoát.

Khi làm việc Phật, nếu dùng tâm phiền não, tâm vọng động chúng sanh mà làm, dù việc ấy có thành công 100% thì cũng là không phải đúng nghĩa việc Phật. Dù có làm việc của chùa đi nữa mà dùng tâm vọng động chúng sanh để làm thì cũng là việc của chúng sanh mà thôi. Đây là nguyên nhân, nguồn gốc đưa đến quả phiền não, khổ đau.

Ngược lại, nếu bằng tâm thanh tịnh, định tĩnh, an ổn, dùng tâm vô sanh mà làm, mà góp một ý kiến cho đời… thì dù việc đó là việc của thế gian, nó cũng biến thành việc Phật. Vì dùng tâm Phật mà làm nên việc gì cũng thành việc Phật và việc làm đó chính là diệu dụng đưa đến thanh thoát, an vui, chứ không giống như vọng động, phiền não chúng sanh.

Cụ thể trong tất cả các sinh hoạt hằng ngày như: ăn, mặc, ngủ, nghỉ, đi, đứng, nằm, ngồi, buôn bán, lãnh đạo, giảng dạy, thể thao, lao động… mình nên tỉnh, nhớ và tự hởi lại mình rằng, đang bằng tâm nào để làm tất cả việc đó? Chỉ cần tâm an tịnh, giác sáng, không sanh khởi thì chuyện gì cũng là chuyện đạo, đâu đâu cũng là Phật pháp, lúc nào cũng là lúc chúng ta đang tu.

16.c/ Dùng nhân vô sanh mới đạt đến quả vị vô sanh.

Tu để làm gì? Để trở thành một vị Phật. Đó là quả. Phật quả là vô sanh. Vậy thì nhân để trở thành một vị Phật là gì? Phải là một ông Phật con, nghĩa là phải là sống thẳng đến chỗ vô sanh. Dùng nhân vô sanh thì mới trở thành quả vị vô sanh được. Còn nếu dùng tâm động, tâm sanh diệt mà muốn trở thành một ông Phật vô sanh, tức là ngược lại với luật nhân quả thì có được không? Đó là nấu cát mà muốn thành cơm, điều đó không có bao giờ.

Trong Kinh Kim Cang đức Phật dạy: "…Nên không chỗ trụ mà sanh tâm kia." Không chỗ trụ mình cứ tưởng là sáu căn phải làm gì trên sáu trần để đạt đến không chỗ trụ. Nếu là pháp đối trị tạm thời thì hợp lý, nhưng nếu dụng đến chỗ rốt ráo thì có làm gì tức là đã có tạo tác, đã rơi vào chỗ trụ rồi. Thực ra, nếu quý vị là người đã có công phu kha khá rồi thì không phải dùng pháp đối trị mãi. Khi đối các pháp, chúng ta không phải biết về nó, biết theo nó mà tự là đang biết, luôn giác sáng thì không có niệm trên tất cả các pháp, thấy suốt qua các pháp mà không dừng trụ trên một pháp nào, ngay đó là đúng nghĩa không chỗ trụ tuyệt đối. Khi không có chỗ trụ như thế, thì tâm có sanh diệt hay không sanh diệt? Tâm không sanh diệt, tâm vô sanh đang hiện tiền. Ngay chỗ đó mà sống tức là tâm Bồ Đề đang hiện ra đó, mới đúng nghĩa là phát tâm Bồ Đề, tâm giác ngộ một cách đích thực. Sống ngay đó là đang tu hành.

Còn nếu có chỗ trụ mà tu. Như là vì sắc, vì thanh, vì hương… mà tu. Tôi vì bực điều này nên tôi tu, vì thích điều kia nên tôi tu, vì bất mãn, vì hứng quá hay vì hâm mộ điều nọ nên tôi tu… tất cả những tâm đó đều có một chỗ vì, đồng với nghĩa đều có chỗ trụ mà tu hết. Mà có chỗ trụ là có chỗ sanh và rõ ràng tâm khởi tu đó là tâm sanh diệt. Dùng tâm sanh diệt thì làm sao đạt đến quả vị vô sanh được!


16.d/ Đang giác là tu.

Hằng ngày trong công việc, sinh hoạt, trên tất cả mọi cảnh duyên, chúng ta nhớ tỉnh lặng, thấy suốt qua, không dừng trụ trên một hình tướng hay sự thể nào, không thấy có một tâm chứng lặng lẽ bên trong cần trụ nữa, như thế ý thức không có chỗ sanh, ngay đó là chúng ta đang GIÁC SÁNG, là đang sống thẳng bằng chỗ vô sanh nơi chính mình.

Tu tức là GIÁC. GIÁC là sống thẳng đến chỗ vô sanh như quý thầy vừa nói ở trên. Cho nên phải nhớ rõ, ĐANG GIÁC TỨC LÀ TU. Đơn giản thế thôi! Ở bất kỳ hoàn cảnh nào, làm bất cứ công việc gì mà chúng ta đang giác sáng trở lại tức là chúng ta đang tu. Nếu vừa có manh nha đi tìm cầu một sở đắc gì đó để dễ thấy rõ được thì sở đắc đó đã biến thành đối tượng bị biết, là đã phân hai, nghĩa là tâm ta đã đi ra, tâm ta đã rơi vào sanh diệt, ngay đó là chúng ta đã mất tu rồi. Biết rõ như vậy để quý vị mạnh mẽ, dứt khoát dừng dứt tâm tìm cầu, không nên tìm kiếm một cái gì bên ngoài hết. Vì tâm mình có thói quen đi tìm, luôn muốn có được một cái gì đó bên ngoài nên dễ bị rơi vào sanh diệt, rơi vào sở đắc bên ngoài rồi lầm đượng lạc lối. Hướng ngoại tìm cầu, đó là tập khí ngấm ngầm lâu đời của chúng sanh. Nó quá sâu dầy nên chúng ta phải tỉnh táo, giác sáng rõ ràng mới thấy được. Còn lơ mơ là ngựa quen đường cũ, nó sẽ âm thầm dẫn mình vào đường tìm cầu, sanh diệt dẫn đến sai lạc khó lường.

16.e/ Tỉnh lại, liền là giác.

Nhắc lại lần nữa cho quý vị nhớ. Vừa giác sáng trở lại, không động, chính đó là tâm vô sanh đang hiển hiện. Sống thẳng ngay đó là đang tu. Cụ thể, trên các công việc, chúng ta chỉ cần tỉnh sáng lại, lặng lại, đang là toàn thể tự sáng biết, không biết theo, không biết về duyên bên ngoài, ngay đó là vô sanh.

Như ở trên quý thầy đã nói, trên mọi sinh hoạt hằng ngày, giác lại rồi làm, tỉnh lại rồi làm. Lên xe, tỉnh rồi đi. Lên lớp, tỉnh rồi nói. Ra chợ, tỉnh rồi mua đồ, gặp việc, tỉnh giác rồi làm… Chỉ tốn khoảng nửa giây thôi, nhưng công việc có hiệu quả hơn nhiều và được tất cả.

Hoặc là khi uống nước, tỉnh sáng, không động rồi uống. Ăn cơm, tỉnh rồi ăn. Ngủ nghỉ, tỉnh rồi nghỉ. Bước xuống, cũng rõ ràng giác sáng, không động, tỉnh lại rồi đi. Nếu nhỡ quên thì ngay đó mình kiểm tra. Tất cả mọi lúc mọi nơi chúng ta, luôn tỉnh tại, giác sáng, không trụ, rõ ràng như thế, lâu ngày thành thói quen, công phu sẽ thuần thục, lực giác sẽ mạnh. Khi lực GIÁC càng mạnh thì THỨC càng bị yếu đi. Đến một lúc đủ lớn, sức giác bất chợt vọt tăng thì thức thần bỗng dưng ngưng dứt bặt. Ngay đó chân trời TRÍ GIÁC chân thật hiển hiện trọn vẹn, rõ ràng, nói không thể đến. Tính chất TRÍ GIÁC này vốn tự nó là không động, nó khác với cái định tạo tác tu tập của chúng ta là làm cho được an định.

Một giác liền xong, không có cái giác từ từ. Nhưng nếu chúng ta là người chưa thể một nhảy vào thẳng biển đại giác thì phải tạm dùng cái giác ban đầu này. Tất nhiên khi chân trời giác ngộ tuyệt đối hiển hiện trọn vẹn rồi thì cái giác trước kia không còn quan trọng nữa. Những vị đã đạt đến đây rồi thì tự biết lối sống, không cần bàn nói như vậy. Còn chúng ta là những người đang còn trên đường dụng công tu tập, chưa đạt được giác ngộ tuyệt đối như các Ngài thì phải tạm dùng cái giác tỉnh đó thôi, trong lúc này không còn thức ăn nào cao thượng hơn cái giác đó nữa. Khi nó đủ sức thì chính nó vỡ tung thành cái đại giác chứ không phải bỏ cái này tìm cái kia, không phải có một cái nào khác vào đây để thay thế. Đó là cách dụng công thẳng tắt đến giác tánh.

17 / LẬP CHÍ BỀN BỈ, KIÊN TRÌ LÂU DÀI, KHÔNG GIÁN ĐOẠN.

Nếu quên thì tỉnh lại, tập dần lâu ngày thành thói quen rồi mới có lực được. Phải kiên trì, không nên tham lam nôn nóng muốn một ngày một bữa mà làm được liền. Lúc đầu quên nhiều, sau quên ít, dần dần sẽ thuần thục và có kinh nghiệm. Đừng vội. Thường chúng ta khi tu tập thích vội chứng đắc cho mau mau, có nhiều người biết được tâm lý này nên đưa ra pháp này pháp nọ tu mau chứng đắc, hợp với sở thích của mình và kết quả là chúng ta bị họ dụ dỗ vào đường sai lệch. Hòa thượng Ân sư chúng ta dạy, người nào tu hành mà muốn chứng đắc cho mau, vài ba tháng là phải chứng đắc liền, thì tôi biết người đó là làm biếng. Bởi lười biếng tu nên muốn chứng đắc cho rồi cho khỏe. Quý vị thấy người muốn chứng đắc như vậy có đúng chưa?

Việc tu tập không phải khó, nhưng chúng ta thường mắc lỗi một nắng mười mưa, không kiên trì liên tục nên không tiến được. Khi thuận lợi thì lười biếng, nguội lạnh không chịu công phu. Đột nhiên cao hứng hay bị buồn đời chi đó thì vội vàng, nôn nóng, đòi tu chí tử và muốn phải có kết quả liền. Hai trạng thái này đều là đột biến, không phải người khéo dụng công nên không đưa đến kết quả tốt.

Khi nguội lạnh thì thiếu sự tỉnh giác, đó là rơi vào vô minh. Nhưng tới khi đùng một cái tu siết, chăm bẵm, đè nén, kềm tâm tu tập để mau có kết quả, đó là rơi vào cố chấp. Lơ đễnh thì rơi vào vô minh. Kềm kẹp thì rơi vào cố chấp. Đây là tâm đột biến, mất bình thường, là tâm động. Dùng tâm đột biến bất thường này mà tu thì làm sao đưa đến kết quả tốt được?

Cố chấp, gấp rút, đè nén và lơ đễnh, nguội lạnh, buông lung là hai bên, là có chỗ cho thức tình sanh khởi. Ngay đây mà dụng công thì không thể đạt đến chánh trí vô sanh được. Rời hai bệnh này thì không có chỗ cho tình thức nương vào để sinh khởi. Sống thẳng ngay đó là GIÁC. Giác là đang tu. Mọi lúc mọi nơi, phải luôn khéo cân chỉnh cho thăng bằng hợp với trung đạo. Vừa quên thì GIÁC liền, vừa thấy hơi nguội lạnh thì phải chấn chỉnh tinh thần, kích hoạt cho tâm phấn chấn liền, vừa thấy nôn nóng quá thì phải lặng lẽ, bình tâm lại, phải giữ cho tâm bình thường và giác liên tục thì công phu tự thăng tiến chứ không cần mong cầu. Mong cầu là có tâm, sanh tâm và có cái bên ngoài để mong cầu đạt đến, là trái đạo.

Một số phương pháp tu khác thấy có chỗ cho tâm bám, chúng ta thấy dễ thực hành và thích, vì sẽ thấy có kết quả cho mình thấy được liền trước mắt, tất nhiên là như vậy. Nhưng với Thiền tông chánh thống, nếu có một cái bên ngoài để cảm nhận được thì nó đã trở thành đối tượng bị biết, bị thấy, bị cảm nhận, nên nó chưa phải là chỗ chân thật rốt ráo tánh tịnh niết bàn nơi chính mỗi người. Đức Phật nói, nếu có một pháp vượt hơn niết bàn này, Như Lai nói đó là huyễn hóa, không thật. Đến chỗ trở về với tánh tịnh bình đẳng tuyệt đối rồi mà Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ còn nói: "Trong nhà Phật pháp mời không ở, Đêm về như trước ngủ hoa lau" Tức là không dừng trụ trong đó mà phải quên đi sở chứng, trở lại trong đời sống bình thường mà giác tánh vẫn không thiếu vắng. Đây là chỗ các Thiền sư nói đập gương vụn đúc thành tượng rồi, nhưng tánh soi sáng luôn rạng ngời, không một vết mê mờ. Sơ Tổ Trúc Lâm nói: "Giác tánh quang quang, Dầu lòng dong thả." Đạt đến đó mới có phần tự do tự tại. Nếu ai còn chấp trong chỗ chứng đắc thì vẫn còn kẹt ở đầu sào trăm trượng, vẫn kẹt trong nước chết không chứa được rồng, vẫn còn bị các Thiền sư quở. Nếu chúng ta thấu suốt như vậy rồi thì đối với những tâm chứng có chỗ được kia chỉ là những món tầm thường, có cho cũng không cần dùng tới. Phải dám mạnh dạn thấu suốt như vậy mới không bị người ta lừa gạt vào nơi lầm đường lạc lối.

Cách ứng dụng công phu này chỉ là nhận lại bản tâm sẵn nơi mình thôi, đâu phải đi tìm một cái gì xa xôi đâu mà khó. Cái khó là ở chỗ tập khí của chúng ta thường hay quên, hay bất giác. Nhưng đừng nôn nóng muốn được liền mà phải kiên trì bền bỉ thì sẽ làm được, không khó. Phải biết rằng, từ xưa đến giờ, đã lâu lắm rồi, chúng ta đã tốn quá nhiều thời gian cho công việc bất giác, bây giờ muốn giác thì cũng cần phải có thời gian gần tương ứng như thế để nuôi lớn cái giác mới hợp lý, phải không? Chúng ta thường vì thiếu sự tĩnh lặng nên làm gì cũng hay nôn nao, nóng lòng, muốn có kết quả thật nhanh, đạt được liền và cộng thêm vào đó cái tật lười biếng, thiếu kiên nhẫn nên dễ nản lòng và thấy tu hành gì mà khó quá. Ngược lại, nếu biết an tĩnh, không nôn nóng, đừng mong mỏi đặt ra thời gian cố định lúc nào phải chứng đắc, mà chúng ta nên biết rằng, phải dụng công đúng thẳng đến chỗ vô sanh, có tu là sẽ đạt đến được, có đi thì có đến. Như thế sẽ không sanh bệnh và đạt được hiệu quả tốt nhất. Giống như leo núi, nếu nôn nóng thì rất dễ mệt mỏi rồi dừng bước bỏ cuộc giữa đường. Còn nếu bình thản, bền bỉ leo đều đặn, không nhanh cũng không chậm thì chúng ta sẽ lên được đỉnh rất nhẹ nhàng.

Hòa thượng Ân sư dạy, sự tu tập phải đủ ba đức tính:

1.    Thiết tha: Dụng công tu tập một cách thiết tha, như đói được ăn, như khát được uống. Rất hứng khởi, phấn chấn và thích thú trong sự tu tập.

2.   Quả cảm: Dám làm, người khác làm được thì mình cũng làm được. Không yếu đuối rồi làm nhẹ nhẹ cho có hoặc thối lui.

3.   Trường viễn: Phải lập chí bền bỉ, lâu dài chứ không phải ngày một ngày hai. Không phải khi thì nguội lạnh giải đãi, khi thì nôn nóng muốn chứng đắc liền, như thế sẽ rơi vào bệnh trong công phu.

(Còn tiếp)
theo truclambachma.net

Tags: Thưa hỏi Thiền

Các bài đã đăng

Pháp Thoại

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Tin mới

Đọc nhiều

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 13067
  • Online: 36