Thiền Của Đạo Phật

30/09/2024 | Lượt xem: 85

HT.Thích Thanh Từ

Hôm nay là buổi nói chuyện thứ hai của tôi tại đây, với đề tài Thiền của đạo Phật như trước tôi đã giới thiệu. Trọng tâm của đạo Phật là dạy người tu giác ngộ, tu ít giác ngộ ít, tu nhiều giác ngộ nhiều. Cho nên giác ngộ có phân làm hai là: Phần giác và Toàn giác. Những vị thánh, Bồ-tát… tu tập giác ngộ từng phần, gọi là Phần giác. Phật là bậc đã giác ngộ viên mãn, nên gọi là Toàn giác. Như vậy, khi chúng ta bước chân vào đạo Phật tức là ít nhiều gì cũng có đôi phần giác ngộ, cất chân đi trên con đường giác ngộ thì mỗi bước là một bước giác, chứ không phải đợi tới cuối đường mới gọi là giác. Giác ngộ là điều quan trọng của người tu Phật, vì thế pháp tu nào của đạo Phật cũng xoay quanh vấn đề giác ngộ, không có một pháp tu nào lìa ngoài giác ngộ.

Đề tài này tôi tạm chia ra hai phần để quý vị tiện theo dõi: Một là Mục đích tu thiền của đạo Phật. Hai là Phương pháp tu thiền của đạo Phật.

I- Mục đích tu thiền của đạo Phật

Tại sao tôi nhắc tới nhắc lui thiền của đạo Phật, hoặc tu thiền theo đạo Phật? Bởi hiện nay có nhiều nhóm tu thiền, nhưng không phải thiền nào cũng là thiền của đạo Phật. Phật là bậc giác ngộ, ngài thấy tột lẽ thật của cuộc đời, của con người, nên lời Phật dạy ra đều là chân lý. Lẽ thật đó là pháp đưa chúng ta đi đến giác ngộ, chứ không phải chỉ dạy chúng ta làm những điều phi lý. Phật căn cứ trên trí tuệ giác ngộ của ngài mà nói ra, để dạy bảo cho chúng ta ứng dụng theo đó mà tu. Thấy được chân lý thì tu mới có hiệu quả, còn không khéo nhận thì sự tu của chúng ta sẽ khác đi, dễ rơi vào tưởng tượng hoặc lạc theo tà giáo ngoại đạo.

Muốn tu theo thiền của đạo Phật, trước tiên quý vị cần giản trạch rõ ràng để tránh bị nhầm lẫn. Chúng ta phải nắm cho thật vững nguyên lý căn bản của đạo Phật, hay nói cách khác là phải nhận ra lẽ thật, thấu suốt được chân lý mới được. Nguyên lý căn bản đó là gì? Một là phải thấy rõ căn bệnh nội tâm của chính mình. Hai là phải biết rõ ngay nơi thân tâm mình, cái gì là hư giả cái gì là chân thật. Ba là đối với các pháp phải biết đúng như thật. Bây giờ tôi sẽ lần lượt trình bày qua từng phần này.

1- Phải thấy rõ căn bệnh nội tâm của chính mình

Tại sao cần phải thấy rõ những căn bệnh nội tâm của chính mình? Bởi vì theo lời Phật dạy, pháp của Phật là những phương thuốc trị tâm bệnh cho chúng sanh. Cho nên người tu thiền theo đạo Phật cần nắm vững tâm bệnh của mình, tức là biết chắc mình đang bị bệnh gì trong tâm thì mới dùng thuốc đúng với bệnh đó.

Pháp Phật dạy là thuốc để đối trị tâm bệnh, nếu chúng ta tu mà không biết mình bị bệnh gì, cũng không biết dùng pháp nào để đối trị cho phù hợp thì làm sao khỏi bệnh. Thí dụ chúng ta đang bệnh muốn mua thuốc uống thì việc đầu tiên là biết mình đang bị bệnh gì, kế đến phải dùng thuốc cho phù hợp với bệnh của mình. Biết chính xác bệnh rồi y lời chỉ dẫn của thầy thuốc, theo toa uống đúng liều lượng ắt bệnh sẽ lành. Nếu có bệnh mà không biết mình bị bệnh gì, làm sao điều trị cho lành bệnh được. Một khi bệnh đã lành rồi thì thuốc mới không còn cần đến nữa. Lục tổ Huệ Năng nói: “Phật dạy tất cả pháp, để trị tất cả tâm. Ta không tất cả tâm, đâu dùng tất cả pháp.” Pháp Phật dạy cốt trị tâm bệnh của tất cả chúng sanh, tâm bệnh của Tổ đã hết rồi nên không cần dùng nữa. Trong kinh Kim Cang Bát-nhã, Phật bảo: “Pháp của ta như chiếc bè đưa người qua sông.” Qua sông phải cần đến thuyền bè, nhưng đã đến bờ kia rồi thì thuyền bè có cần nữa không? Qua sông thì phải bỏ bè, nếu lên bờ rồi mà còn vác bè theo, chắc chắn sẽ bị thiên hạ cười chê quá dốt.

Phật như thầy thuốc giỏi biết rõ tâm bệnh của chúng sanh, do đó khi thuyết pháp ngài chỉ dạy cách tu đúng với tâm bệnh của mỗi người, vì vậy việc tu mới có hiệu quả tốt. Do đó thời Phật được gọi là thời Chánh pháp, nghĩa là thời kỳ trăm người tu thì trăm người ngộ. Đến thời kỳ kế, tức sau khi Phật nhập Niết-bàn, hàng đệ tử của Phật đều là bậc đã chứng thánh quả A-la-hán hay Bồ-tát, cho nên các ngài cũng biết tâm bệnh của con người để đối cơ mà giáo hóa. Tuy không bằng Phật, nhưng có thể trăm người tu thì năm chục người giác ngộ, vì vậy thời này được gọi là thời Tượng pháp, tức là gần giống như thời đức Phật.

Quý vị có biết hiện nay chúng ta là thời gì không? Thời mạt pháp. Mạt là cuối cùng, rốt sau. Trong kinh nói thời chánh pháp năm trăm năm, thời tượng pháp một ngàn năm; thời mạt pháp dài hơn, tới trên hai muôn năm. Nói mạt pháp không có nghĩa là không còn Phật pháp mà là nhắm trên phần tu chứng, như trong kinh nói thời mạt pháp ngàn người tu chưa được một người chứng. Vì cách Phật quá xa nên hàng đệ tử Phật, nhất là giới tu sĩ, ít có người tu hành chứng ngộ. Không chứng ngộ thì đâu biết bệnh của chúng sanh mà dạy tu cho đúng pháp, khiến họ được lành bệnh. Thí dụ quý vị không biết bệnh của mình tìm đến hỏi tôi, tôi cũng không biết quý vị bệnh gì thì làm sao nói cho phù hợp. Rất khó! Thế nên trong thời hiện tại của chúng ta, nếu quý vị muốn tu mà không gặp được bậc thầy biết bệnh biết thuốc thì trước hết phải tự rõ bệnh của mình, cùng học hiểu giáo lý Phật dạy để biết đúng chánh pháp, rồi chọn lấy một phương pháp ứng dụng tu cho phù hợp. Giáo lý của Phật là pháp đối trị, tức là trị ngay căn bệnh mà mỗi người đang mắc phải, nhưng nếu ở hoàn cảnh không có thầy thuốc hoặc không gặp được thầy thuốc giỏi thì điều cần yếu là chúng ta biết bệnh, biết thuốc để tự trị bệnh của mình, như thế mới không bị lầm.

Lúc đức Phật còn tại thế, khi ấy ngài A-nan chưa chứng thánh quả. Bấy giờ có hai người ham tu, một vị làm nghề thợ rèn, một vị trông coi nghĩa địa, cùng xin ngài A-nan chỉ dạy phương pháp tu tập. Ngài dạy ông thợ rèn tu pháp quán bất tịnh, dạy ông giữ nghĩa địa tu pháp quán sổ tức. Hai vị áp dụng tu hai ba năm vẫn không thành công, tới trình với ngài. Ngài A-nan bèn đến hỏi Phật:

-   Bạch Thế Tôn! Con y theo lời Thế Tôn dạy, chỉ pháp tu cho hai đệ tử. Họ áp dụng tu tập đã lâu mà không kết quả, chẳng biết lỗi tại cái gì?

Phật hỏi:

-    Những người đó đang làm nghề gì, ông dạy họ tu pháp nào?

Ngài A-nan thưa:

-    Bạch Thế Tôn, con dạy ông thợ rèn tu quán bất tịnh, ông giữ nghĩa địa tu quán sổ tức.

 Phật cười nói:

-    Ông đã dạy họ sai rồi! Lẽ ra phải dạy thợ rèn tu quán sổ tức. Tại sao? Bởi vì ông ấy làm nghề thợ rèn thổi ống bễ phì phò cả ngày, nếu vừa làm vừa theo hơi thở ra vô thì sẽ thuận lợi. Còn ông giữ nghĩa địa nên dạy tu pháp quán bất tịnh, vì mỗi ngày ông ấy đều thấy xác chết do đó quán bất tịnh dễ dàng hơn.

Ngài A-nan nghe lời Phật dạy bèn thay đổi phương pháp tu cho hai người kia, sau thời gian ba tháng tu tập cuối cùng họ đều được kết quả tốt.

Đức Phật dạy tu rất rõ ràng, điều căn bản là chúng ta thấy rõ được căn bệnh nội tâm của chính mình, để ứng dụng một pháp tu cho thích hợp. Phật tử cần phải thấy đúng và hiểu đúng, có thế việc tu mới thuận lợi dễ dàng, không bị sai lạc.

2- Phải biết rõ ngay nơi thân tâm mình, cái gì là hư giả cái gì là chân thật

Hiện giờ ngay nơi thân mình, quý vị có phân rành được cái gì là giả, cái gì là thật chưa? Chắc khó phân rành. Nếu không phân rành thì sự tu khó có kết quả. Tôi giản trạch đôi nét để quý vị thấy trong thân ta cái gì là giả, cái gì là thật.

Tất cả người thế gian đều nhận thân mình là thật, nhưng trong các kinh điển của đạo Phật, nhất là hệ Bát-nhã thì nói thân này hư dối. Bởi người thế gian thấy thân là thật, nên khi nghe trong kinh nói thân hư dối thì cho rằng đạo Phật bi quan, vì thân mình đã hư dối thì đâu còn ham thích, đâu muốn làm gì. Thế nhưng người nào hiểu thấu đáo được yếu chỉ của đạo Phật, mới biết Phật không lường gạt chúng ta. Phật nói thẳng lẽ thật để chúng ta không lầm, không sống theo những ảo tưởng điên cuồng. Như tất cả chúng ta hiện nay, ai ai cũng đều biết rõ thân này rồi phải tới lúc bại hoại, già chết là chuyện đương nhiên, vậy mà trong tư tưởng không ai dám nghĩ tới, cứ ảo tưởng mình còn sống lâu. Chúng ta không thể nói tôi phải sống tới tám chín mươi tuổi mới chết, mà bất cứ lúc nào, hễ gặp duyên trái ngược với sự bảo vệ của mạng sống thì thân tan hoại. Nếu chúng ta cứ ngỡ rằng mình còn sống mười năm, hai mươi năm hay thậm chí năm bảy mươi năm… thì đó chỉ là ảo tưởng mà thôi.

Trong kinh Phật có kể câu chuyện, một hôm đang ngồi bất chợt Phật hỏi các thầy Tỳ-kheo: Này các Tỳ-kheo, mạng người sống bao lâu? Một Tỳ-kheo thưa: Trong vài ngày. Phật nói: Ông chưa thấy đạo. Tỳ-kheo khác thưa: Trong khoảng bữa ăn. Phật bảo: Ông cũng chưa thấy đạo. Cuối cùng một Tỳ-kheo thưa: Bạch Thế Tôn, mạng người chỉ sống trong hơi thở. Phật khen: Đúng vậy, ông đã thấy đạo. Các thầy Tỳ-kheo thưa mạng người sống vài ngày, hoặc trong khoảng bữa ăn, chúng ta thấy đã là ngắn quá rồi, vậy tại sao Phật còn quở là chưa thấy đạo? Bởi vì muôn người như một, không phải đợi tới lúc nào mới chết. Cái chết không định thời gian dài ngắn mà sự thật chỉ ngay hơi thở, thở ra không hít vào là chết. Vì thế khi thầy Tỳ-kheo trả lời mạng sống trong hơi thở, Phật khen ông đã thấy đạo. Thấy đạo là thấy đúng lẽ thật, chứ không phải thấy do tưởng tượng.

Đa số người đời lúc cha mẹ hay thân nhân sắp chết, đi mua quan tài để chuẩn bị hậu sự nhưng không dám nói thẳng mua quan tài mà nói đi nhắc cái thọ. Thọ là sống lâu. Người thân gần chết rồi, song chúng ta vẫn còn tưởng tượng không chịu chấp nhận lẽ thật. Do lúc nào cũng nghĩ mình sống lâu nên khi cái chết bất thần đến thì liền hoảng hốt, sợ sệt, đau khổ. Nếu rõ mạng sống trong hơi thở thì không nói mình sống bao lâu hết, chỉ biết lúc nào thở ra không hít vào là chết. Lẽ thật là như vậy mà có nhiều Phật tử thích đi xem tay, đoán số mạng coi chừng nào chết. Mạng sống trong hơi thở cần gì phải đi coi tay, việc làm này bằng thừa bởi lẽ không bao giờ trúng. Sống bao lâu cũng tốt, nếu còn hít thở trăm năm thì sống trăm năm, hít thở vài mươi năm thì sống vài mươi năm. Điều rất quan trọng trong cuộc sống chúng ta là phải có cái nhìn đúng lẽ thật, từ thấy đúng, nghĩ đúng sẽ bớt dần những sợ sệt lo âu.

Thân này đã tạm bợ trong hơi thở, vậy tâm của chúng ta thì sao? Tất cả chúng ta đều cho rằng những suy nghĩ phải quấy, hay dở v.v… đó là tâm mình. Nhưng các thiền sư luôn khẳng định, cái suy nghĩ ấy chỉ là vọng tưởng hư dối, tuy từ tâm ra nhưng nó không phải tâm chân thật của mình. Như hiện giờ tất cả ngồi nghe tôi giảng, chăm chú lắng nghe từng lời rõ ràng, vậy đang lúc này quý vị có suy nghĩ phân biệt gì không? Không. Quý vị có lãnh hội được không? Có. Không suy nghĩ phân biệt này kia mà vẫn lãnh hội được, vậy cái đó là gì?

Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền một hôm thăng tòa, nói với đại chúng rằng: “Các ông nếu hay bặt được tâm luôn luôn chạy tìm, liền cùng Phật tổ chẳng khác. Các ông muốn biết được Phật tổ chăng? Chính trước mặt các ông hiện đang nghe pháp ấy vậy.” Người đang nghe giảng nói, không phải ai khác chính là các ông. Không qua suy nghĩ nhưng vẫn lãnh hội rõ ràng, không phải mình thì là gì? Nghĩ suy rồi mới biết, cái đó là vọng tưởng hư giả, không phải thật tâm mình.

Chúng ta lâu nay thường lầm nhận vọng tưởng làm tâm, còn cái thật mình lại bỏ quên. Bây giờ biết những vọng tưởng dấy lên là hư dối rồi thì đừng chạy theo nó nữa, hãy sống trở lại tâm chân thật của mình. Người muốn tu thiền điều cần yếu là phải nắm vững được lý này rồi ứng dụng tu mới dễ kết quả, còn không hiểu thì việc tu rất khó. Có nhiều Phật tử than, sao con tu lâu rồi mà vọng tưởng vẫn còn nguyên? Bởi thấy thân mình là thật nên có chấp thân, vì chấp nên thấy thân là quan trọng, hễ ai nói gì xúc chạm tới thân là không chịu. Do nhận cái suy nghĩ tưởng tượng hư dối làm tâm nên có chấp tâm, cho những điều mình suy nghĩ là đúng, nếu nói mà người khác không nghe thì liền nổi giận. Từ chấp thân, chấp tâm nên vọng tưởng liên miên không dứt. Một khi thấy rõ thân tâm đều hư dối không thật, còn cái gì mà chấp? Không chấp thì ngồi thiền mới yên, dễ được an định. Đây là lẽ thật đúng với chân lý chứ không phải lẽ thật theo tưởng tượng.

3- Đối với các pháp phải biết đúng như thật

Các pháp tức chỉ cho tất cả sự vật trên thế gian. Tại sao bảo đối với các pháp phải biết đúng như thật? Bởi với con mắt phàm phu luôn nhìn tất cả các pháp đều không thấy đúng như thật, những điều chúng ta nói ra lúc nào cũng thật có hoặc thật không, đẹp xấu v.v… là cố định, nhưng quý vị thử xét lại coi, muôn sự vật trên thế gian này cái gì là thật có, cái gì là thật không, cái gì cố định?

Lắm người cho rằng kinh Phật khó hiểu quá, nói cái gì mà sắc tức là không, không tức là sắc, sắc sắc không không… thật khó hiểu! Ngay đây tôi hỏi các vị, cái gì là sắc, cái gì là không? Cái bàn này có phải sắc chăng? Hư không trống rỗng kia có phải không chăng? Cái bàn không phải hoàn toàn là sắc, hư không cũng không phải hoàn toàn là không. Nếu hư không hoàn toàn không thì chắc chúng ta chết ngộp rồi, vì không khí đâu mà thở. Chúng ta hít thở được tức là có không khí. Như vậy chỗ có này đâu phải có thật, chỗ không kia cũng đâu phải không thật. Sắc là thật sắc thì không trống hở, không là thật không thì vạn vật làm sao tồn tại. Đó là tôi chỉ nói sắc và không ở mức tương đối, còn nói sắc không theo lý của đạo Phật thì rất thâm sâu. Chữ Không trong đạo Phật nói, chẳng phải là không của hư không mà là không có tánh cố định. Từ ngữ chuyên môn gọi là “tánh không” hay “tướng không”. Nghĩa là tất cả các pháp đều do duyên hợp nên không có cái gì là cố định.

Thí dụ cái đồng hồ này quý vị nhìn thấy cho là thật có, nhưng trong đạo Phật nói nó là giả có. Tại sao? Bởi cái đồng hồ đang thấy đây là do nhiều bộ phận ráp lại mà thành, vì thế tuy có đó nhưng chỉ là giả tướng, tạm gọi là đồng hồ. Nếu bây giờ mở nó ra để riêng từng bộ phận thì không có cái đồng hồ. Như vậy, đồng hồ này vốn không thật có, do nhiều duyên hợp lại mà thành, nên nó không có thật thể. Gọi đồng hồ là một giả danh, thấy hiện có là một giả tướng. Giả danh, giả tướng tức không thật có, nên nói tánh nó là không. Nghĩa là không có tự tánh của cái đồng hồ. Tự tánh là chỉ cho một thật thể cố định độc lập, không do duyên hợp. Từ cái đồng hồ mà chúng ta quán sát rộng ra, nhà cửa… các pháp bên ngoài cho tới thân mình cũng như vậy, đều không có thể tánh cố định. Trong cái không cố định mà chúng ta lại thấy thật, thấy cố định rồi khởi lên đủ thứ chấp trước sai lầm. Do chấp sai lầm mới sanh ra nhiều thứ tranh cãi, hơn thua, phải quấy… Cho nên Phật nói chúng sanh sống trong si mê. Nếu chúng ta thấy đúng lẽ thật như lời Phật dạy thì không có cái gì để cho mình chấp, ngay đó là hết si mê.

Thiền sư Đạo Hạnh ở đời Lý - Việt Nam, có nói bài kệ bằng chữ Hán:

Tác hữu trần sa hữu

Vi không nhất thiết không,

Hữu không như thủy nguyệt       

Vật trước hữu không không.

Tôi tạm dịch:

Có thì muôn sự có

Không thì tất cả không

Có không trăng đáy nước

Đừng mắc có cùng không.

Ngày xưa trong báo Từ Bi Âm có đăng bản dịch bài kệ này theo thể thơ lục bát, của một vị dịch rất hay:

Có thì có tự mảy may

Không thì cả thế gian này cũng không,

Có không bóng nguyệt lòng sông

Ai hay không có, có không làm gì.

Nếu nói là có thì các pháp trên thế gian này cái gì cũng có, còn nói là không thì tất cả đều không. Nói có thành có, nói không thành không. Tại sao vậy? Bởi hữu không như thủy nguyệt, có và không đều như trăng đáy nước. Thế nên vật trước hữu không không, chớ chấp có cũng đừng kẹt ở không. Ngài diễn tả qua hình ảnh cụ thể mà rất tuyệt vời, vào đêm rằm trăng sáng nhìn xuống hồ thấy mặt trăng ở đáy nước, mặt trăng dưới đáy nước tức là bóng mặt trăng. Bóng mặt trăng ở đáy nước mà chúng ta nhìn thấy đó, là có hay là không?

Trông dưới đáy nước thấy mặt trăng rõ ràng, tức là có. Nhưng đưa tay mò vớt thì mặt trăng liền tan biến, tức là không. Đứng về mặt hiện tượng mắt thấy là có, nhưng trên thực thể đưa tay mò vớt thì không. Như vậy nói thế nào mới đúng? Nói có là đúng hay nói không là đúng?

Sự vật trên thế gian nếu chúng ta khẳng định cái này là có, cái kia là không thì không được, vì tất cả pháp đều do duyên hợp chứ nó không tự có. Đã không tự có, tức không một pháp nào là thật cả. Chẳng qua là do đứng về mặt giả tướng nên tạm nói có, còn đứng về thật thể thì nó là không. Giống như bóng trăng đáy nước, mắt nhìn thấy có mà mò vớt thì không. Người đời không hiểu, cho rằng bóng trăng là thật có hoặc thật không. Đó là cái thấy sai lầm, nhưng ai cũng khẳng định mình đúng, rồi không chấp nhận nhau dẫn đến tranh đấu. Rốt cuộc ngã lẽ ra sao, ai phân xử đúng sai được? Chắc rằng mấy ông biện lý cũng cười thôi, không làm sao giải quyết nổi. Bởi mắt thấy rõ ràng làm sao nói không, đưa tay vớt lại không thể được làm sao nói có. Bóng mặt trăng đã giả mà còn khẳng định có, không trăm phần trăm, thật là si mê. Cả thế gian này chúng ta đang tranh luận, cãi vã với nhau là vì cái gì? Toàn vì chuyện hơn thua, phải quấy, có không… đủ thứ việc. Chừng nào thấy được lẽ thật thì chừng ấy chúng ta mới không còn tranh luận nữa. Anh nói có. Đúng vậy, trên giả tướng là có. Anh nói không. Ừ phải, về thật thể là không. Vậy là huề, không có gì để tranh cãi hết.

Người tu Phật là nhìn bằng lẽ thật, tức là từ giả tướng mà thấu tột thể tánh chân thật, chứ không phải chỉ nhìn đơn thuần theo bóng dáng tạm bợ bên ngoài. Do thấu rõ được thể tánh ấy nên chúng ta không bao giờ dám nói khẳng định là có hoặc là không, tự nhiên bớt được các thứ kiến chấp mình người, có không v.v… Người tu bớt chấp được rồi thì ngồi thiền tâm mau định, còn những vị chấp nhiều quá thì làm sao an định nổi. Bởi ngồi lại cứ nhớ người này trúng người nọ trật, đây phải kia quấy… bao nhiêu thứ rối đầu, làm sao mà yên được. Vì thế người tu muốn an định trước hết phải nhận hiểu đúng đắn, cho nên trong giáo lý Bát chánh đạo đầu tiên phải có Chánh kiến, Chánh tư duy. Chánh kiến là nhận định đúng đắn. Chánh tư duy là suy gẫm đúng đắn. Từ nhận định suy gẫm đúng đắn mới đi tới cái cuối cùng là Chánh niệm và Chánh định. Nếu không có hai cái ban đầu thì kết quả sau cùng khó mà có được. Do vậy chúng tôi nói rõ cho các vị muốn tu thiền theo đạo Phật hiểu kỹ, để sự tu tập được kết quả tốt đẹp.

Quý vị đã nắm vững được ba nguyên lý căn bản mà tôi vừa nói rồi, tới đây chúng ta tiếp tục bước vào phần dạy tu thiền theo đạo Phật. Về phần này, trước hết tôi nói lối tu theo thiền Nguyên thủy. Thiền Nguyên thủy có nhiều pháp tu, như: Tứ niệm xứ, Ngũ đình tâm quán v.v… Nhưng trong phạm vi hôm nay, tôi chỉ đơn cử một vài pháp tu đối trị. Như trong đề tài hôm qua tôi đã nói, nếu chúng ta có bệnh tham thì dùng pháp tu đối trị bệnh tham. Tham lại có nhiều thứ, nào là: tài, sắc, danh, thực, thùy. Mỗi bệnh có pháp đối trị phù hợp riêng, tham sắc tu pháp khác, tham tài tu pháp khác, tham danh tu pháp khác…

Người tham tiền tài danh vọng, Phật dạy quán sát sự vật thế gian là vô thường, những gì chúng ta có được ngày nay chưa hẳn ngày mai còn. Dòng chuyển biến đó không dừng ở một điểm nào, từ thân tâm cho đến ngoại cảnh đều đang chuyển biến từng phút giây. Con người, cuộc đời, giao tiếp xử sự với nhau cũng đổi thay không dừng. Danh lợi được đó cũng chỉ là tướng vô thường, không dừng yên một chỗ. Quán thân chúng ta luôn luôn thay đổi, trẻ già rồi bệnh chết. Quán thân người khác cũng vậy, các duyên chung lại từ không thành có, dần dần hư hoại từ có về không. Cứ quán mãi như thế, gọi là Chánh tư duy. Quán tưởng không phải tưởng tượng mà là quán sát căn cứ trên lẽ thật, lâu ngày quán niệm thấm nhuần trong lòng thấy sự vật gì cũng liền biết đúng như thật.

Đối với người tham sắc, Phật dạy phải quán bất tịnh. Quán sát thân này gồm ba mươi sáu vật bất tịnh: tóc, lông, răng, móng, da thịt, gân, xương v.v… đều là tướng nhơ nhớp. Như tôi bây giờ già có nhiều kinh nghiệm về răng, thí dụ khi răng bị hư đến nha sĩ nhổ. Răng nhổ ra rồi chúng ta nhìn nó có còn quý không, hay là thấy gớm? Trong con người mình, lúc tóc lông răng móng da thịt gân xương còn dính trong cơ thể chúng ta thấy nó tốt đẹp, nhưng tách rời ra rồi thì đều nhớp nhúa không có cái gì là thật quý cả. Người đời thấy thân này là quý, nhưng dưới con mắt của người tu thì thấy ngược lại. Lúc đức Phật sắp thành đạo dưới cội Bồ-đề, ma quân hóa hiện ra thành những thiếu nữ kiều diễm đến dùng mọi cách để dụ dỗ ngài. Phật bảo: “Đãy da hôi thối, đi đi, ta không dùng.” Nghe vậy ma quân hổ thẹn rút lui.

Với cái nhìn của đức Phật thì thân này chỉ là một đãy da hôi thối, còn quý vị có thấy như vậy không? Bởi là đãy da hôi thối nên khi thân bị trầy lủng một chỗ nào thì nhìn đâu cũng thấy đáng chê. Như con mắt là quý mà lúc bị đổ ghèn thì sao? Lỗ mũi tốt đẹp hít thở mỗi ngày, nhưng khi nước mũi nhễu nhão có dơ không? Miệng bình thường cũng dễ coi, lúc ngủ nước dãi trong miệng chảy ra có còn dễ coi nữa không? Nếu đãy da này chứa đồ sạch thì những cái đem ra tất nhiên phải tốt, nhưng cái nào đem ra cũng nhơ nhớp hết thì rõ ràng nó chứa toàn đồ hôi thối. Những bộ phận trên của thân là cao quý mà trông nhớp nhúa vậy rồi, huống nữa các bộ phận dưới còn đáng gớm tới đâu. Thấy đúng sự thật này và hằng nhớ như thế rồi, giả sử có gặp ai dáng dấp đẹp đẽ đến mấy, chúng ta cũng biết đó chỉ là một đãy da hôi thối thì lòng mến yêu sắc tự nhiên giảm bớt. Đó là cách quán bất tịnh để trị tâm bệnh tham sắc của mình.

Phật dạy nhiều phương pháp để đối trị tâm bệnh, mỗi người tự kiểm soát lại mình, bệnh nào nặng thì dùng pháp quán cho phù hợp, nếu không biết bệnh rồi dùng pháp quán sai, việc tu sẽ không đem lại kết quả tốt. Bệnh tham phải quán vô thường hay bất tịnh, còn bệnh sân hận thì dùng pháp quán từ bi. Bởi vì một khi nóng giận nổi lên, lập tức những suy nghĩ xấu ác với người dấy khởi liền. Tại sao chúng ta có ý niệm xấu với người? Vì mình giận ghét họ. Cũng đồng một câu nói phát ra, nhưng nếu là người mình không ưa thì liền sừng sộ, nổi nóng lên cho rằng tại sao nói năng vô phép. Ngược lại, nếu đó là người mình rất thương thì sao? Dù họ có ăn nói vô lễ đến mấy mình cũng sẵn sàng tha thứ dễ dàng.

Rõ ràng thương nhiều không nóng giận, thương ít nóng giận ít, không thương dễ nóng giận, thế nên Phật dạy sân hận phải dùng quán từ bi để đối trị.

Quán từ bi đúng pháp là làm cho từ bi thấm sâu vào trong lòng mình, chứ không phải chỉ là những tư tưởng hời hợt đơn giản bên ngoài như nhiều người hay nghĩ. Thí dụ khi tôi giảng quý vị nghe hiểu, nhưng hiểu đó chỉ là mới hiểu qua lỗ tai chứ chưa thấm nhuần vào trong nội tâm. Cho nên nói thiền quán, tức là quán sát điều tâm của mình. Như chúng ta ngồi thiền, trước điều thân, kế điều hơi thở, xong rồi tới điều tâm. Thiền quán từ bi bắt đầu là từ lòng thương yêu kính trọng cha mẹ mình, tình thương đó dần trải đến anh em cốt nhục… những người thân yêu, lần lần tới hàng xóm, rồi tiến xa hơn đến tất cả mọi loài. Nghĩ tất cả đều có ân với mình, nên khởi lòng thương hết. Dù là những người hiện giờ chúng ta chưa từng quen biết, nhưng họ và mình đồng là con người, cùng mang dòng máu đỏ, ai cũng đáng thương không người nào đáng ghét. Do nghĩ như vậy, cứ quán tới quán lui để khởi lòng thương mạnh mẽ khắp hết. Chừng nào đối với kẻ thù mình cũng thương như thương cha mẹ, đó là quán từ bi thành công.

Đối với người nhiều si mê, Phật dạy dùng pháp quán nhân duyên để mở sáng con mắt trí tuệ nơi mình. Con người do si mê nên chấp cái gì cũng thật, thấy cái gì cũng cao quý, bởi thế cần phải quán nhân duyên để dẹp phá si mê. Phật dạy tất cả pháp đều do duyên hợp, từ cái nhà, cái bàn… cho tới thân chúng ta và tất cả mọi người đều là duyên hợp, hư giả không thật. Quán tới quán lui mãi, chừng nào thấy tất cả sự vật đều là tướng duyên hợp là mình có được trí tuệ sáng suốt. Phương pháp tu thiền quán để trị tâm bệnh của mình, nếu thiền quán thấm nhuần rồi thì có định, tuệ, hoặc được khinh an. Tùy theo khả năng mỗi người, quán sâu chừng nào thì kết quả nhiều chừng ấy.

Bài kinh Tứ Niệm Xứ trong Trung A-hàm, đức Phật có dạy: “Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nào trụ Bốn niệm xứ trong vòng bảy năm, nhất định sẽ chứng được một trong hai quả, hoặc chứng Cứu cánh trí ngay trong hiện tại, hoặc chứng A-na-hàm nếu còn hữu dư…” Nói như thế rồi đức Phật rút ngắn lại, không cần phải đến mấy năm mà chỉ thực hành Tứ niệm xứ trong vòng mấy tháng, mấy ngày v.v… cũng đạt thánh quả. Cuối cùng Phật rút ngắn hơn nữa: “… Chỉ cần trong một ngày một đêm… luôn luôn trong từng khoảnh khắc, lập tâm chánh trú nơi Bốn niệm xứ. Nếu buổi sáng thực hành như vậy, nhất định buổi tối liền được thăng tấn. Nếu buổi tối thực hành như vậy, nhất định sáng hôm sau sẽ được thăng tấn.” Người nào tu quán Tứ niệm xứ chỉ cần một ngày một đêm mà không có niệm dời đổi, cũng có thể chứng được thánh quả. Như vậy việc tu hành có kết quả thật sự nếu mình biết ứng dụng đúng, còn không thì tu một hồi không biết lạc về đâu, rơi vào chỗ nào.

Những pháp đối trị vừa nói, tạm gọi là thiền trị tâm bệnh theo tinh thần thiền của Phật giáo Nguyên thủy, trong các kinh A-hàm hay Nikϩya dạy rất đầy đủ, tôi chỉ nêu lên những phần căn bản vì thời gian có hạn nên không thể nói hết. Bây giờ tôi sẽ chuyển qua phần nói về thiền theo tinh thần Đại thừa.

Thiền sư Huệ Tư ở núi Nam Nhạc, ngài là vị tổ sư sáng lập ra tông Thiên Thai ở Trung Quốc. Thời gian đang tu, ngài xem Trung Quán Luận của tổ Long Thọ đến bài kệ:

Nhân duyên sở sanh pháp

Ngã thuyết tức thị không

Diệc danh vi giả danh

Diệc danh trung đạo nghĩa.

Nhân duyên sở sanh pháp, pháp là chỉ cho muôn sự muôn vật trên thế gian này, các pháp đó đều do nhân duyên sanh. Ngã thuyết tức thị không, ta nói các pháp do duyên sanh đều không có thật thể cố định. Như trăng đáy nước tuy thấy có nhưng nó không thật, nói có hay nói không đều không đúng nghĩa. Trong hư không có trăng, ở dưới hồ có nước. Hai cái này làm duyên hợp lại thành có bóng trăng. Bóng trăng dưới hồ không tự có, mà nhờ duyên là trăng và nước mới hiện. Các pháp cũng vậy, do nhân duyên hợp không có thật thể.

Diệc danh vi giả danh, diệc danh trung đạo nghĩa. Cũng gọi là giả danh, cũng gọi nghĩa trung đạo. Đứng trên thể là không nhưng hiện thấy có tướng mạo, có tên gọi. Cái tạm có đó, là giả danh giả tướng. Biết như vậy rồi là thấu suốt được nghĩa trung đạo, tức là không dính kẹt ở hai bên.

Đọc qua bài kệ của tổ Long Thọ, thiền sư Huệ Tư liền có sở ngộ. Sau đó ngài mới lập ra pháp Tam quán của tông Thiên Thai, là: Không quán, Giả quán và Trung quán; tức là quán Không, quán Giả, quán Trung.

Quán Không là quán tất cả sự vật ở thế gian đều do duyên hợp, không có tự tánh. Cứ thế quán mãi chừng nào nhìn cái gì cũng thấy là duyên hợp không tự tánh, là quán Không thành công.

Nếu quán ngang đó rồi dừng thì mắc kẹt, cho nên phải qua bước thứ hai là quán Giả. Biết các pháp tuy không có tự tánh, nhưng duyên hợp thì có giả tướng, giả danh. Quán như vậy chừng nào thấy các pháp liền biết tự tánh của nó là không, tướng đang hiện có chỉ là giả tướng giả danh, đó là quán Giả đã thành công.

Tới đây chuyển qua bước cuối là quán Trung, trung tức là trung đạo. Quán các pháp thế gian không có cái gì là một bên, có hoặc không, mà viên dung với nhau. Đó là lý Trung đạo.

Thông thường khi nói ra điều gì, tất cả chúng ta đều đặt vấn đề là có hay không, phải hay quấy v.v… lúc nào cũng kẹt hai bên, phải xác định là có hay không thì mình mới chịu. Nhưng sự thật thì không có cái gì thuộc về một chiều cả, không chỉ một mặt có hoặc không mà luôn luôn viên dung với nhau. Thấu suốt được lý Trung đạo thì hết tranh giành hơn thua, tâm được an hòa thanh tịnh, không còn những suy nghĩ cố chấp sai lầm. Người tu mà tâm không vướng bận vào tất cả chuyện hơn thua phải quấy của thế gian, tất sẽ đạt tới giải thoát không gì nghi ngờ. Thiền Đại thừa hay còn gọi là thiền Bắc tông, không phải chỉ có một pháp quán này mà còn rất nhiều pháp quán khác nữa, nhưng tôi chỉ đơn cử đại khái như thế.

Có những người cũng nói tu thiền, đốt cây nhang để trước mặt rồi ngồi nhìn chăm vào đó cho tâm được định. Làm như thế cũng được định, nhưng trong đạo Phật gọi đó là si định. Nghĩa là định của si mê chứ không phải định của người giác ngộ. Thiền của đạo Phật là tu thiền trong chân lý, không có gì là huyền hoặc, tưởng tượng viển vông. Hiện giờ đa số người tu thiền không nắm vững được nguyên lý này, cho nên nghe ai bảo “tu thiền theo tôi sẽ có những sự mầu nhiệm gì gì…” thì liền tin tưởng tu theo. Huyền bí viển vông không phải là đạo Phật. Đạo Phật chỉ thẳng lẽ thật để chúng ta tu tập đạt đến chân lý, chứ không phải tu để được phép thần thông làm cho kinh thiên động địa.

Trước khi kết thúc phần thứ nhất này, tôi nhắc lại một lần nữa cho quý vị thấy rõ mục đích tu thiền của đạo Phật, đó là lấy giác ngộ làm căn bản. Bởi thế nên tất cả pháp Phật dạy tu đều cốt chỉ cho thấy tường tận lẽ thật, để chúng ta không bị tham sân làm mờ ám mà sanh ra những cố chấp cuồng dại. Vì thế thấy đúng chân lý là yếu chỉ của người tu Phật. Nhờ thấy được lẽ thật nên khi gặp việc trái ý không vừa lòng chúng ta buông xả dễ dàng, thấy đúng hành đúng thì bao nhiêu điên đảo vọng tưởng xa xưa tiêu mòn dần dần, chúng ta không bị những thứ mê hoặc của thế gian trói buộc, có thể đạt đến kết quả cứu cánh giác ngộ, gọi là giải thoát sanh tử. Nghĩa là từ sự giác ngộ lẽ thật mà chúng ta được giải thoát, chứ không phải bằng cách cầu người cứu mình giải thoát. Không ai ngoài mình có thể dẫn đưa mình đến giác ngộ giải thoát được cả, chính cái thấy đúng như thật mới giúp cho chúng ta thoát khỏi mọi sự ràng buộc khổ đau.

II- Phương pháp tu thiền của đạo Phật

Phần trước đã nói về mục đích tu thiền của đạo Phật, bây giờ bước qua phương pháp tu thiền của đạo Phật. Chúng ta biết mục đích tu thiền của đạo Phật rồi, cũng cần phải biết phương pháp tu thế nào để đạt được mục đích đó.

Nói đến phương pháp tu thì quý vị nên hiểu đừng cố định đạo Phật trong một phương pháp nào. Bởi vì Phật dạy nhiều pháp tu nhưng tất cả đều là phương tiện, còn mục đích giác ngộ giải thoát thì không khác nhau. Về phương pháp tu thiền của đạo Phật, tôi sẽ trình bày thứ tự phương pháp tu thiền theo kinh điển Nguyên thủy, kinh điển Đại thừa và qua các thiền sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam.

Đường lối tu thiền có hệ thống cụ thể do đức Phật dạy còn ghi chép trong kinh điển, chứ không phải ai tự làm thế này thế nọ theo ý riêng tư. Từ hệ thống chung đó các thiền sư khéo léo ứng dụng khiến cho người sau khai ngộ. Phương pháp hay đường lối tu là hướng đi, đưa chúng ta đến mục đích mình đang nhắm. Gốc của tu thiền theo tinh thần giáo lý đức Phật dạy, phải gìn giữ sáu căn không cho nhiễm dính sáu trần. Sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Tại sao không cho sáu căn dính mắc sáu trần? Bởi vì căn và trần gặp nhau thì liền có ý thức duyên theo phân biệt, do phân biệt nên khen thì thích, chê thì không ưa, từ đó sanh ra những niệm khen chê, thành tâm yêu ghét, nhiễm tịnh…

Học thiền của đạo Phật chúng ta nên biết cho tường tận, không thể không hiểu gì về giáo lý Nguyên thủy, cũng không thể nào tách rời được giáo lý Đại thừa. Vì vậy cần phải đi thẳng từ kinh điển Phật dạy, rồi dần dần bước qua lãnh vực của các thiền sư.

Trước tiên tôi dẫn bài kinh số 311 trong Tạp A-hàm bên Hán tạng:

Một hôm tôn giả Phú-lâu-na đến xin Phật chỉ dạy pháp yếu, để ngài đến một nơi nào đó yên tu. Đức Phật hoan hỷ, bảo: “Nếu có Tỳ-kheo nào mắt thấy sắc vừa ý, đáng yêu, đáng vui, đáng nhớ, trưởng dưỡng dục. Tỳ-kheo kia thấy rồi sanh ra hỷ lạc, tán thán, hệ lụy. Do hỷ lạc, tán thán, hệ lụy, tâm càng hoan hỷ. Do hoan hỷ càng đắm sâu hoan lạc, đắm sâu hoan lạc mà tham ái sanh, do tham ái sanh mà bị ách ngại. Do đó cách xa Niết-bàn. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy.”

Qua lời của đức Phật dạy cho chúng ta thấy, mục đích của người tu là đạt đến Niết-bàn. Đức Phật dạy muốn gần Niết-bàn thì phải giữ sáu căn khi tiếp xúc sáu trần không ưa thích, không nghĩ nhớ, không say đắm và không tham ái; ngược lại là xa Niết-bàn. Quý vị kiểm lại xem chúng ta gần Niết-bàn hay xa Niết-bàn? Chắc xa lắm! Vì vậy nên chúng ta khổ.

Ngài Phú-lâu-na sau khi được Phật chỉ dạy pháp yếu tu tập rồi, bèn từ giã Phật đi. Phật hỏi:

-    Này Phú-lâu-na, ông định đi nơi nào

Phú-lâu-na thưa:

-     Bạch Thế Tôn! Con định đi sang nước Du-lâu-na.

-     Này Phú-lâu-na, dân xứ Du-lâu-na hung hăng ác độc, nếu họ mắng chửi thậm tệ ông thì ông nghĩ thế nào?

-     Bạch Thế Tôn! Nếu dân xứ Du-lâu-na gặp con họ mắng chửi, mạ nhục thậm tệ thì con nghĩ rằng người dân này còn lương thiện, còn trí tuệ, vì họ chưa dùng đất đá ném chọi con.

-     Nếu người dân xứ ấy dùng đất đá ném chọi ông thì ông nghĩ sao?

-    Bạch Thế Tôn! Con vẫn nghĩ người dân xứ này còn lương thiện, còn trí tuệ, vì họ chưa dùng tay thoi đấm con.

-     Nếu người dân xứ đó gặp ông, dùng tay thoi đấm ông thì ông nghĩ thế nào?

-     Bạch Thế Tôn! Con vẫn nghĩ người dân xứ này còn lương thiện, còn trí tuệ, vì họ chưa dùng gậy gộc để đánh đập con.

-     Nếu người dân xứ này họ dùng gậy gộc đánh đập ông thì ông nghĩ thế nào?

-    Bạch Thế Tôn! Con vẫn nghĩ người dân xứ này còn lương thiện, còn trí tuệ, vì họ chưa dùng giáo mác để đâm chém con.

-     Nếu họ dùng giáo mác đâm chém ông thì ông nghĩ thế nào?

-    Bạch Thế Tôn! Con nghĩ người dân xứ này cũng vẫn còn lương thiện, còn trí tuệ, vì họ chưa giết con chết.

-     Nếu họ giết ông chết thì ông nghĩ thế nào?

-    Bạch Thế Tôn! Con nghĩ người dân xứ này vẫn còn lương thiện, còn trí tuệ, vì nhờ họ mà con bỏ được thân nhớp nhúa thậm tệ này.

Phật khen:

-     Lành thay, Phú-lâu-na. Nếu như thế thì ông hãy qua xứ đó hành đạo.

Ngài từ giã Phật đi sang nước Du-lâu-na, chỉ trong một mùa an cư đã chứng quả A-la-hán và ở tại đó giáo hóa được năm sáu trăm người rồi tịch.

Tôn giả Phú-lâu-na có hai điểm nổi bật: Một là về sự tu, ngài ứng dụng phương pháp gìn giữ sáu căn không dính nhiễm sáu trần, nhờ đó mau đạt đạo quả chóng chứng Niết-bàn. Hai là với cái nhìn của ngài, không thấy ai xấu ác đối với mình, cho đến giết chết thân mạng ngài cũng mang ơn, vì đã thấy rõ thân mình đúng thật là ô uế nên không có gì luyến tiếc. Ngài nói rất chân thành từ trong lòng mình chứ không phải lời nói nơi cửa miệng, nếu chúng ta ngày nay cũng khéo ứng dụng tu được như ngài thì tốt biết mấy.

Thời đức Phật còn tại thế, ngài dạy các Tỳ-kheo tu pháp Tứ niệm xứ. Quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Có một số Tỳ-kheo ứng dụng tu quán thân bất tịnh, các thầy xét kỹ thân mình từ đầu tới chân đều nhớp nhúa, quán rồi sanh ra nhờm gớm, nhàm chán thân này muốn bỏ nó mà không biết làm sao, bèn nhờ người giết giùm. Một thời gian sau có dịp tụ họp, đức Phật thấy các Tỳ-kheo vắng mặt nhiều, hỏi ra mới biết lý do. Phật liền quở: “Ta dạy các ông quán thân nhớp nhúa bất tịnh là để trị bệnh tham đắm thân chứ không phải để tự tử. Các ông tự bỏ thân mạng, đó là trái lời ta dạy.” Phật dạy pháp là để trị bệnh tham đắm chứ không phải để chết, vì thế sau khi quán bất tịnh rồi thì Phật dạy phải quán tịnh. Quán thấy xương cốt từ từ phát ra hào quang trắng, tức là từ bất tịnh chuyển sang tịnh. Các thầy Tỳ-kheo chỉ quán một pháp bất tịnh mà không quán tịnh, cho nên cuối cùng thấy gớm quá muốn bỏ thân mình.

Trong kinh A-hàm, đức Phật có kể câu chuyện: Một đàn khỉ nọ trước khi đi ăn được khỉ chúa dạy rất cẩn thận, phải đi theo đàn đừng đi riêng lẻ sẽ bị bẫy. Do theo bầy đàn nên con khỉ nhỏ nhất đi sau chót, cái gì ăn được thì mấy con khỉ trước đã lượm hết rồi, tới nó không có gì để ăn. Khỉ nhỏ mới nghĩ ra một cách là tách đàn đi riêng chắc dễ tìm thức ăn hơn, thế là nó tách ra đi tìm ăn một mình. Đi được một đỗi chợt thấy có miếng mồi ngon, nó mừng quá bốc ăn. Vừa đưa tay vào bốc thì tay liền dính vào bẫy nhựa, nó đưa tay thứ hai vào lại bị dính nhựa, đưa chân này lên gỡ cũng dính nhựa, đưa chân kia lên gỡ cũng dính nhựa, nó cúi xuống đưa miệng vào cắn dính luôn cái đầu, chỉ còn cái đuôi cục cựa nó đưa vào để gỡ, vậy là dính luôn cái đuôi. Sáu bộ phận của con khỉ đều dính nhựa hết không còn cục cựa được nữa, chú thợ săn đi tới thấy khỉ con dính bẫy liền lượm bỏ vô giỏ mang về.

Kể xong đức Phật hợp pháp: Cũng vậy, nếu người nào sáu căn dính mắc sáu trần thì sẽ bị ma vương tự do bắt đi. Giống như con khỉ nhỏ kia, bị người thợ săn tóm lấy đem về. Thợ săn dụ cho ma vương. Nếu chúng ta tu mà để sáu căn dính sáu trần, đó là mình bị lệ thuộc vào ma chứ không bao giờ gần được Niết-bàn.

Đó là ý nghĩa trong kinh A-hàm thuộc hệ Nguyên thủy. Giờ đây tôi nói sang các kinh điển thuộc hệ Phát triển, hay còn gọi là kinh Đại thừa. Pháp tu giữ gìn sáu căn đừng dính nhiễm sáu trần không phải lối tu đối trị, mà là pháp thực tế hữu ích giúp người tu thấy đúng như thật. Thế nên dù tu theo hệ Nguyên thủy hay hệ Phát triển thì rốt ráo cũng là một gốc không hai.

Về kinh điển Đại thừa, trước hết tôi dẫn kinh Kim Cang. Ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật: “Người mới phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, làm sao an trụ, làm sao hàng phục được tâm?” Xuyên suốt toàn bộ bản kinh, đức Phật chỉ trả lời cho hai câu hỏi này. Về câu hỏi an trụ tâm, Phật dạy: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm; bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm; ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Nghĩa là không nên để tâm dính mắc với sắc, không nên để tâm dính mắc với thanh, hương, vị, xúc, pháp; nên không có chỗ dính mắc mà phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Lời Phật rất rõ ràng, sáu căn không dính mắc với sáu trần là hướng tiến lên quả vị giác ngộ giải thoát.

Kế đến là kinh Lăng-nghiêm. Ngài A-nan hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Cái gì là cội gốc của phiền não, cái gì là cội gốc của Niết-bàn?” Đức Phật không trả lời mà mười phương chư Phật dị khẩu đồng âm, tức là khác miệng mà đồng lời, cùng nói rằng: “Này A-nan, cội gốc phiền não sanh tử ngay nơi sáu căn của ông, cội gốc Bồ-đề Niết-bàn cũng từ sáu căn của ông.” Nghĩa là nếu sáu căn bị dính với sáu trần thì đó là cội gốc của phiền não sanh tử, sáu căn không dính với sáu trần đó là cội gốc Bồ-đề Niết-bàn.

Sao sáu căn lại là cội gốc phiền não sanh tử, rồi sáu căn cũng là cội gốc Bồ-đề Niết-bàn? Thí dụ bây giờ chúng ta tụng kinh hay, lễ Phật giỏi, nhưng nếu sáu căn còn dính sáu trần thì tu tới chừng nào mới giải thoát? Đây là chỗ mà lâu nay chúng ta chưa can đảm tiến lên. Tại sao? Bởi vì chúng ta thấy thân này là thật, là quý, nên cứ đuổi theo năm trần sắc, thanh, hương, vị, xúc để thụ hưởng những cảm giác vui thích. Lưỡi thì muốn được cảm giác ngon, vừa ý. Tai thì muốn nghe tiếng đẹp hay, cảm thọ êm ái. Mũi thì muốn có cảm giác thơm, dễ chịu. Mắt thì muốn theo cảm giác đẹp v.v… Tất cả những cảm giác mà chúng ta ưa là vì nó thích hợp ý mình, do đó khi gặp liền dính nhiễm, không thể nào gỡ ra được.

Giáo lý Nguyên thủy nói thọ là khổ, tức là tất cả cảm giác mà chúng ta ưa thích đều là hiện tượng vô thường, qua rồi mất không có cái gì lâu bền nên không phải là vui. Như tai chúng ta, khi nghe nhạc hoặc những tiếng ưa thích thì vui, nhưng qua rồi mình lại cảm thấy mệt mỏi buồn chán. Lưỡi nếm thức ăn cảm giác ngon thấy vui, nuốt vô rồi vị ngon đó không còn, hết vui. Các căn khác cũng vậy, tiếp xúc với sáu trần sanh chán ghét hay ưa thích chỉ là những cảm giác tạm bợ, hoàn toàn không thật mà chúng ta mãi đắm chìm trong đó.

Đời hay đạo đều cần phải ăn, nhưng ăn đó là vì nuôi mạng sống chứ không phải ăn để phục vụ cho cái lưỡi. Người đời ăn một bữa tiệc thịnh soạn tại cao lầu tốn bao nhiêu tiền, còn người tu ở chùa mỗi ngày ăn rau luộc chấm nước tương tốn kém không đáng gì. Ăn uống linh đình chưa hẳn bổ béo, không chừng còn sanh bệnh nữa. Như những cụ già ở quê sống rất đạm bạc mà thọ đến tám chín mươi tuổi. Hiện nay có nhiều căn bệnh khó trị cần phải ăn kiêng, tức là đã bị hạn chế. Không phải thỏa mãn cái lưỡi giúp chúng ta được sống thọ, chỉ có sống điều hòa mới tăng tuổi thọ. Rõ ràng càng đuổi theo sáu trần thì càng dính kẹt, càng dính kẹt thì càng bị nhiễm ái chi phối, đó là nhân đưa chúng ta đến phiền não, sanh tử. Nếu biết đơn giản hóa cuộc sống, khi sáu căn tiếp xúc sáu trần không để tham muốn đòi hỏi thì không bị nhiễm ái chi phối, đó là chúng ta gần với Niết-bàn.

Niết-bàn không ở đâu xa, chính ngay tâm không nhiễm dính trần cảnh. Sáu căn nhiễm sáu trần gọi là lục tặc, cũng sáu căn mà không nhiễm sáu trần thì thành lục thông. Nếu quý vị thường đến chùa thì chắc hẳn có thấy, tượng đức Di-lặc với sáu đứa bé vây quanh, đứa chọc tai, đứa chọc mũi, đứa chọc con mắt v.v… Hình ảnh hết sức cụ thể này nhằm chỉ cho sáu căn của chúng ta bị sáu trần xoi phủng, làm mình dính mắc vào đó. Nhưng ngài Di-lặc thì mặc kệ, sáu đứa nó muốn xoi vào tai vào mắt gì ngài cũng cười. Bởi lúc nào cũng cười hoan hỷ nên người thế gian xem ngài là biểu tượng của hạnh phúc, còn chúng ta còn dính nhiễm nên luôn thấy khó chịu, vì thế mà xa Niết-bàn. Có nhiễm thì có buồn lo, chưa được thì lo cho được, được rồi lo bị mất mát, mất rồi thì lo tìm kiếm… cứ vậy mà lo hoài. Chừng nào không còn dính nhiễm thì chừng đó khỏi lo, sống vui vẻ hạnh phúc. Sự tu tập đem lại hạnh phúc cụ thể ngay đời này chứ không cần đợi đến đời sau, điều này chúng ta có thể nghiệm thấy rõ ràng.

Trên đây tôi đã trình bày về ý nghĩa tu tập sáu căn và sáu trần, theo tinh thần Phật dạy trong kinh điển Nguyên thủy và Đại thừa, bây giờ tôi sẽ nói qua các thiền sư.

Một thiền sư nổi tiếng ở Trung Hoa vào giữa đời Đường, đó là Mã Tổ Đạo Nhất. Có vị tăng hỏi:

-    Thế nào là đại ý Phật pháp?

Mã Tổ liền đánh, nói:

-    Nếu ta chẳng đánh ngươi thì người trong thiên hạ sẽ cười ta.

Tăng lại hỏi:

-    Thế nào là ý Tổ sư Tây sang?

Mã Tổ bảo:

-     Lại gần đây, vì ông nói.

Tăng lại gần, Mã Tổ tát vào tai, nói:

-     Sáu cái chẳng đồng mưu.

Quý vị thấy thiền sư dạy đạo bạo quá phải không? Hỏi không trả lời mà gọi lại gần tát cho một tát nói sáu cái không đồng mưu, rồi đuổi đi. Nếu bây giờ quý vị tới hỏi đạo mà các thầy trả lời cách đó thì sao? Chắc mình thoi lại quá! Sáu cái chẳng đồng mưu tức là sáu căn không mưu tính để dính với sáu trần. Sáu căn không dính mắc sáu trần, đó là ý Tổ sư từ Tây sang. Hỏi đáp thông thường thì dễ quên, nên cho một tát tai té lửa để nhớ đời, đó là thủ thuật kỳ đặc của nhà thiền.

Một vị thiền sư Trung Hoa kỳ đặc hơn nữa, đó là ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền. Lúc còn là thiền khách ở dưới hội thiền sư Hoàng Bá Hy Vận, ba năm mà chưa dám hỏi câu nào. Thủ tọa thấy thế xúi đến hỏi Hòa thượng đường đầu, thế nào là đại ý Phật pháp? Lâm Tế lên hỏi y vậy, Hoàng Bá chẳng nói câu nào đập cho ba gậy đuổi xuống. Cứ thế ba lần hỏi, ba lần bị đánh như nhau. Hết kiên nhẫn, ngài từ giã ra đi, Hoàng Bá chỉ đến chỗ thiền sư Đại Ngu. Ngài Lâm Tế trình bày nhân duyên không khế hợp, rồi hỏi xem chẳng biết mình có lỗi hay không lỗi. Đại Ngu nói: “Hoàng Bá tâm lão bà, đã vì ngươi chỉ chỗ tột khổ, lại đến đây hỏi có lỗi không lỗi!” Ngay đó Lâm Tế liền đại ngộ, sụp xuống lạy.

Mới nghe qua chúng ta thấy các thiền sư dạy đạo có vẻ tàn nhẫn quá, phải không? Nhưng đây chính là những thủ thuật kỳ đặc trong nhà thiền. Ba gậy của Hoàng Bá khiến ngài Lâm Tế ngộ tới chết vẫn không quên. Bởi nếu trả lời đại ý Phật pháp là không để tâm dính mắc hai bên thì người hỏi dễ quên. Bị đánh dồn đến chỗ đau khổ cùng cực, mới chỉ cho biết đừng ở hai bên mà nhận lấy. Nếu còn tìm lỗi hay không lỗi tức là bị dính kẹt vào hai bên. Bên đây là căn, bên kia là trần. Lối đáp càng khó hiểu thì càng khó quên, còn câu đáp khiến người nghe dễ hiểu thì cũng sẽ dễ quên. Như có người tới hỏi thiền sư Vô Nghiệp: Thế nào là giải thoát? Ngài đáp: Căn trần không dính nhau là giải thoát. Lối đáp này trong nhà thiền gọi là tử ngữ, tức là câu nói chết. Lối đáp của ngài Hoàng Bá được gọi là hoạt ngữ, tức là câu nói sống. Thế nên dòng thiền của tông Lâm Tế truyền cả ngàn năm, từ Trung Quốc sang Việt Nam, Nhật Bản… đến nay vẫn còn.

Thiền là một phương pháp dạy tu rất trung thực với đức Phật, nhưng hành động của thiền sư thì phi thường và rất táo bạo. Vì vậy nhiều người không lãnh hội được, đọc sách thiền thấy kỳ cục quái lạ không thể chấp nhận, rồi cho rằng thiền tông là quái thai của Phật giáo. Ngày nay chúng tôi dạy thiền, nếu dùng thủ thuật như các thiền sư thuở trước thì chắc là không ai tới học, mà còn tưởng rằng mấy ông thầy này điên rồi. Do đó tuy dạy thiền nhưng phải dùng ngôn ngữ lý lẽ cho dễ hiểu, để người học có thể ứng dụng tu được. Nếu bây giờ mà sử dụng thủ thuật cao siêu chừng nào thì lại càng nguy hiểm chừng nấy, không những chẳng ai lãnh hội được mà còn thêm lầm lạc.

Ở trên đã tạm dẫn sơ qua vài vị thiền sư Trung Hoa, bây giờ sang thiền sư Việt Nam.

Vị thiền sư Việt Nam đầu tiên mà tôi muốn nói đến, đó là vua Trần Thái Tông. Khi nhà vua bỏ ngôi trốn lên núi Yên Tử để tu, gặp thiền sư Trúc Lâm, có lẽ là thiền sư Đạo Viên mà sau này còn gọi là quốc sư Phù Vân. Quốc sư hỏi, vua lên núi mong cầu việc gì? Vua thưa, do thấy sự nghiệp đế vương đời trước hưng phế bất thường, cho nên mới vào đây, chỉ muốn cầu thành Phật, chứ chẳng muốn tìm gì khác. Quốc sư nói:

-   Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm lắng lặng trí tuệ xuất hiện, đó chính là Phật.

Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần cực khổ đi tìm ở bên ngoài.

Vua nghe lời dạy liền lãnh hội được yếu chỉ.

Hôm sau Trần Thủ Độ đem các quan lên núi đón vua về kinh. Vua không chịu về, Trần Thủ Độ thưa nếu nhà vua không nghĩ lại thì ông và các quần thần cùng chết ở đây, chứ quyết không trở về mà không có vua. Nhà vua không biết tính sao mới hỏi ý kiến Quốc sư, Quốc sư bảo:

-    Phàm làm đấng nhân quân, thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón bệ hạ về, bệ hạ không về sao được? Tuy nhiên việc nghiên cứu nội điển xin bệ hạ đừng phút nào quên.

Lời dạy của Quốc sư là kim chỉ nam cả đời cho vua Trần Thái Tông, vạch ra một hướng đi mới tươi sáng, ngài vâng lời trở về triều tiếp tục làm vua. Ngoài việc triều chính ra, nhà vua luôn ôn tầm kinh điển, áp dụng lời Phật dạy vào trong hoàn cảnh của mình.

Một hôm ngồi xem kinh Kim Cang, đọc tới câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, nghiền ngẫm tới lui, bỗng dưng khai ngộ. Sau đó ngài mới viết một quyển sách nói về thiền, để tựa là Thiền Tông Chỉ Nam, nhưng hiện nay đã thất lạc chỉ còn sót lại lời tựa mà thôi. Giống như trường hợp của Lục tổ Huệ Năng, vua Trần Thái Tông cũng ngộ lý thiền qua sáu căn không dính sáu trần, đó là tâm vô thượng Bồ-đề. Chính do thấu suốt chỗ thiết yếu của Phật dạy, ngộ được trọng tâm của thiền tông, nên về sau nhà vua soạn quyển Khóa Hư Lục, trong đó có Lục thời khóa tụng, tức là nghi thức tụng sám hối sáu căn trong sáu thời của một ngày, cứ mỗi một thời là sám hối một căn.

Một ông vua Việt Nam ngộ đạo, nắm vững được tông chỉ của Phật tổ chỉ dạy rồi soạn ra sáu thời sám hối cho người Việt Nam tụng, vậy mà lâu nay chúng ta là con cháu lại lãng quên không tụng tới, đó là lỗi mất gốc của chúng ta. Quý vị có sám hối theo sáu thời này không? Nếu có chắc cũng chỉ mới gần đây thôi, phải vậy không? Lâu nay chúng ta thường sám hối Hồng Danh, hoặc Lương Hoàng Sám… mà ít ai biết sáu thời sám hối này. Chúng ta có bệnh hướng ngoại, cái hay của tổ tiên mình không đem ra ứng dụng mà cứ học ở nơi khác. Dù rằng thiền tông được truyền từ Trung Hoa sang, nhưng Phật giáo Việt Nam có cái ưu của Việt Nam, nếu chúng ta biết đem ra ứng dụng thì hay hơn và gần gũi hơn.

Sám hối sáu căn rất hay, ngài chỉ ra cặn kẽ cho chúng ta thấy con mắt nhiễm theo sắc trần như thế nào, có tội gì; lỗ tai nhiễm tiếng thế nào, có tội gì v.v… Thấy rõ ràng tội lỗi từ sáu căn dính nhiễm sáu trần như thế nào rồi, chúng ta sám hối từng căn để ngừa tránh, không cho dính mắc vào sáu trần nữa, không nhiễm tức nhiên gần Niết-bàn. Nếu tới ngày rằm hay ba mươi chúng ta đến chùa lạy sám hối, mà đọc xong không biết mình sám hối cái gì thì làm sao tiêu nghiệp được.

Tôi chủ trương tu phải thực tế, không nên bắt chước rập khuôn mà không hiểu. Vì vậy gần đây tôi đem Lục thời sám hối của ngài Trần Thái Tông soạn, gom lại thành một thời khóa tụng. Bởi hiện nay thời giờ của chúng ta eo hẹp, không thể ngày đêm sáu thời chuyên ròng sám hối được, cho nên chỉ rút gọn vào một thời sám hối mỗi ngày, mà đầy đủ cả sáu căn. Chúng ta phải nhớ, sáu căn nhiễm dính sáu trần là xa Niết-bàn, sáu căn không nhiễm dính sáu trần là gần Niết-bàn, là được giải thoát. Việc tu gần gũi và rất thực tế đến thế, chứ không phải là chuyện huyền bí xa xôi đâu đâu. Do đó nếu chúng ta sám hối sáu căn mỗi ngày, tức là tự gỡ mắt tai mũi lưỡi… của mình không để bị nhiễm. Vì thế chúng tôi cho soạn nghi thức sám hối sáu căn của vua Trần Thái Tông, để Phật tử tụng mỗi ngày. Tuy nhiên nhiều người không hiểu tại sao chúng tôi làm như vậy, nên không khỏi luận bàn. Nếu một khi đã rõ sáu căn là nhân phiền não sanh tử, sáu căn cũng là nhân của Bồđề Niết-bàn thì chắc hẳn quý vị sẽ hiểu ý nghĩa sám hối sáu căn là tối quan trọng.

Một thiền sư có sức ảnh hưởng rất lớn trong Phật giáo Việt Nam mà tôi muốn nói kế tiếp là Sơ tổ Trúc Lâm, tức vị vua thứ ba đời Trần là Trần Nhân Tông. Ngài có làm bài Cư Trần Lạc Đạo Phú, đây là một bài phú bằng chữ Nôm rất hay, sau này chúng tôi có diễn ra bằng chữ quốc ngữ mình đang sử dụng. Kết thúc bài phú, ngài nói bốn câu kệ bằng chữ Hán:

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

Cơ tắc san hề khốn tắc miên.   

Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch            

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

Cư trần lạc đạo là ở nơi trần tục mà luôn vui với đạo, chứ không phải đợi cạo tóc ở chùa như chúng tôi mới vui với đạo. Ngài làm bài phú này lúc đang là Thái thượng hoàng giúp vua con trị nước, tức là ở trên ngai vàng trong cung điện mà vẫn vui với đạo.

Tôi dịch sang tiếng Việt là:

Ở đời vui đạo khéo tùy duyên

Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.

Trong nhà có báu thôi tìm kiếm

Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.

Chỉ bốn câu kết thúc thôi mà ý thiền rất sâu xa, thật thấm thía và hay đáo để. Thế nhưng cũng có nhiều người hiểu lầm, nghe nói đói đến thì ăn, mệt ngủ liền, rồi cho rằng tu vậy khỏe quá, đói cứ ăn mệt cứ ngủ ai làm không được. Nhưng đây tôi sẽ giải thích cho quý vị thấy rõ ý nghĩa sâu xa trong câu nói đó.

Ở đời vui đạo khéo tùy duyên. Chữ khéo này hết sức quan trọng. Khéo tùy duyên là sao? Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Tùy duyên là đói ăn mệt ngủ, vậy quý vị xét kỹ lại coi mình có khéo sống tùy duyên không? Khi đói mà nhìn mâm cơm thấy toàn những món mình không thích, hoặc thiếu tiêu ớt v.v… thì đâu chịu ăn. Lúc mệt cũng đâu chịu ngủ liền, nằm nhớ quá khứ nghĩ vị lai, lăn qua trở lại hoài không ngủ được. Người biết tu đối với quá khứ, hiện tại, vị lai đều không bận tâm, cho nên tuy ngủ chỉ bốn, năm tiếng đồng hồ mà khỏe, còn người không biết tu mặc dù thời gian dài mà ngủ không được bao nhiêu nên sanh bệnh hoạn.

Bởi chúng ta không làm chủ được mình, tai nghe lời khen tiếng chê liền vui buồn, mắt thấy sắc đẹp xấu sanh bực bội hoặc nhớ tưởng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm đều dính nhiễm. Nếu chúng ta nhớ lời Phật dạy, ăn chỉ cốt trị bệnh đói thì ngon dở đâu chi phối được mình. Tôi được quý Phật tử mến vì vậy đôi khi cũng hơi khó xử, mỗi khi tới đâu các vị hay nấu cơm cúng dường, rồi lo lắng sợ tôi ăn không được nên hỏi Thầy ăn có ngon không? Tôi trả lời ngon là dính mắc nhưng được lòng thí chủ, còn không nói thì các vị buồn. Gặp trường hợp này tôi chỉ cười mà thôi, không trả lời.

Tôi thường nói, bệnh lo nghĩ của chúng ta không thực tế. Thí dụ quý vị làm việc, nếu ngày mai có một buổi gặp mặt với cấp trên thì hôm nay lo lắng chuẩn bị sẵn xem phải nói câu gì, nhưng tới lúc gặp mặt lại hoàn toàn khác hẳn, những câu dự định nói của mình bị bỏ vô sọt rác mất rồi, đâu còn ý nghĩa gì nữa. Mọi việc đều là tùy cơ ứng biến chứ đâu thể giữ y nguyên theo tính toán sắp đặt sẵn của mình. Tính trước suốt cả đêm sáng ra dùng cũng không được, chi bằng tới đó tùy cơ người ta hỏi mình thấy biết thế nào thì nói thế ấy là xong. Trong cuộc sống chúng ta, cái gì đã qua cho qua, nếu việc làm đó dở thì sửa đổi, hay thì vui vẻ tiến thêm, không có chuyện gì phải lo nghĩ cả. Được vậy tinh thần sáng suốt, làm gì cũng không sai lầm. Vua Trần Nhân Tông dạy, sống ở đời mà vui với đạo thì phải khéo tùy duyên. Làm nhà giáo thì khi vào lớp đem hết tâm tư dạy học, không phóng tâm lo nghĩ chuyện nhà. Tới văn phòng làm việc văn phòng, ngồi đọc sách thì chỉ đọc sách, giờ nào việc nấy, đừng bận tâm vào bất cứ cái gì ngoài việc đang làm ngay hiện tại.

Người khéo tu không phóng tâm chộn rộn, cuộc sống của họ như những ngăn tủ kéo cái nào ra cái đó, còn người đời thì đa phần làm cái này mà nghĩ cái khác nên tâm luôn bất ổn. Nhớ lúc tôi đi làm giấy chứng minh nhân dân, nhìn cô gái ngồi đánh máy trông rất tội nghiệp. Cô để bản chứng minh nhân dân cũ của tôi một bên, sổ gia đình một bên. Cô vừa nhìn vào sổ bộ vừa đánh máy, tên tôi là Trần Thanh Từ mà cô đánh thành chữ Trần Thanh Trừ. Tôi ngạc nhiên hỏi thì cô cho biết, trước tôi có người tên Trừ nên cô đánh tên nhầm người này qua người kia. Tại sao đánh nhầm tên? Tại tâm của cô lao ra ngoài, ngồi đó mà tâm phóng đi đâu nên nhớ cái cũ mà không thấy hiện tại. Không chỉ riêng cô này mà đây cũng chính là bệnh chung của tất cả chúng ta.

Chúng ta tu không phải đợi ngồi thiền mới tu, mà đi đứng nằm ngồi, đối duyên xúc cảnh lúc nào cũng tu. Tập sống với hiện tại thì làm việc gì cũng đạt kết quả tốt, còn cứ nhớ chuyện này chuyện nọ thì việc làm thất bại. Nhất là thời đại khoa học này, làm việc toàn máy móc nếu phóng tâm sơ hở thì lập tức tai nạn liền. Cho nên quý vị nhớ, đừng để tâm viên ý mã chạy rong mà phải thường thường làm chủ nó. Dừng được tâm như khỉ vượn đó rồi, tự nhiên gặp việc đều thông. Bởi vì tâm yên thì trí sáng, nên nói “nhân định sanh tuệ”.

Ví như khạp nước đục, chúng ta nhìn vào không thấy mặt mũi mình. Nếu để cặn bã lắng xuống, nước trong vắt thì không những mặt mũi mình và cả cảnh vật xung quanh cũng đều hiện bóng rõ ràng. Cũng vậy, nội tâm rối loạn là ngầu đục, lắng trong thì sáng tỏ. Ngồi thiền chính là để giữ tâm không chạy ngược chạy xuôi, dần dần vọng niệm lặng yên, trí tuệ tròn sáng. Nếu ai ai cũng khéo tu tùy duyên như vậy, tức là sống đời mà vui với đạo.

Trong nhà có báu thôi tìm kiếm. Chúng ta có sẵn viên minh châu quý báu rồi, đừng chạy tìm kiếm ở đâu nữa. Minh châu là tượng trưng cho Phật của mình. Chúng ta tu muốn thành Phật, phải khéo dừng tâm dính với trần cảnh thì hạt minh châu hiện ra sờ sờ. Sở dĩ bây giờ tâm chúng ta tối là vì bị cái ăn cái mặc, đẹp xấu ngon dở… che khuất. Vén bức màn đen che phủ này đi thì hạt minh châu hiện ra, khỏi cần tìm kiếm ở đâu hết.

Quý vị thử kiểm lại coi mình có viên ngọc báu này không? Mỗi người đều có tức là Phật ngự sẵn rồi, đã có Phật nếu khéo tu thì sẽ thành Phật. Đó là chỗ thiết yếu. Trong kinh Pháp Hoa kể câu chuyện, một gã hành khất lang thang hôm nọ ghé thăm người bạn thân giàu có. Người này thết đãi cơm rượu xong rồi bận việc phải đi xa, thấy anh bạn nghèo khổ đang say mèm không biết gì, bèn cho viên ngọc quý cột trong chéo áo. Anh bạn nghèo tỉnh rượu, lại tiếp tục đi lang thang kiếm sống. Thời gian lâu sau hai người chợt gặp nhau, nhờ người bạn chỉ anh bạn nghèo mới biết mình có viên ngọc quý bèn lấy ra sử dụng, từ đó hết nghèo khổ. Cũng vậy, chúng ta bị phiền não nhiễm ô là vì quên mình chạy theo sáu trần, bây giờ dẹp bỏ dần sáu trần không để cho dính mắc nữa, đó là mở chéo áo lấy viên ngọc ra. Việc tu hết sức thực tế và lợi ích vô cùng.

Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền. Đây là câu nói chí lý của nhà thiền. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đối cảnh mà không có tâm dính mắc đó là thiền, đừng hỏi han cũng đừng tìm kiếm gì nữa. Người ta cứ nghĩ thiền là phải ngồi yên một chỗ tu, còn ra ngoài mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi v.v… làm sao mà tu. Trong nhà thiền thường dạy chúng ta tu trong bốn oai nghi, tức là đi đứng nằm ngồi đều tu được, nhưng ngồi thù thắng hơn. Tại sao? Vì sức tu của chúng ta còn yếu, nên đối với sáu trần không dính nhiều cũng dính ít, vì vậy lúc đi đứng hay nằm dễ bị dính nhiễm khó tu. Trong khi ngồi thiền nhìn xuống, tức là đóng hết năm căn chỉ nhắm thẳng vào một căn ý. Ý căn là chủ động, khi dồn hết tâm lực làm chủ mình, những niệm khởi lên đều biết rõ ràng nhưng không dính cũng không theo nó.

Tổ sư thường nói có mắt như mù, có tai như điếc. Nghĩa là vẫn thấy nghe tất cả nhưng không chú tâm, chứ không phải nhắm lại đừng thấy, bịt lỗ tai để đừng nghe. Bởi chúng ta nhạy quá, mắt có nhựa của mắt, tai có nhựa của tai… nên vừa thấy vừa nghe là dính liền. Chúng ta cứ theo thấy nghe mà dính mắc mãi, gỡ không ra. Lối tu này không hạn chế trong một cảnh nào, tùy duyên ở đâu chúng ta cũng có thể tu được hết. Tóm lại, thấy nghe tất cả mà lòng không dính mắc, gọi đó là vô tâm.

Bốn câu kệ trên cho thấy, đường lối tu thiền của vua Trần Nhân Tông không khác Trần Thái Tông. Vua Trần Thái Tông nhìn không khác Lục tổ Huệ Năng. Tổ Huệ Năng nhìn không khác với kinh Kim Cang, Lăng-nghiêm. Như vậy, chư Tổ hiểu đạo và tu hành đều đúng như lời Phật dạy. Chẳng những kinh Đại thừa mà kể cả kinh Tiểu thừa cũng giống nhau. Điểm quan trọng của pháp tu thiền là tu ngay sáu căn. Ngay sáu căn nếu khéo tu thì giải thoát, gần Niết-bàn; nếu không khéo tu đa mang nhiều thứ trần tục thì xa Niết-bàn. Nên nhớ, niệm hư dối không thật thuộc về vô thường, vọng niệm lặng thì chân thường hiện tiền, gọi đó là Niết-bàn. Đường lối của Phật tổ chỉ dạy là như thế, không hai không khác.

Nếu quý vị lãnh hội được ý chỉ này, chỉ cần nhớ tu chắc chắn sẽ có lợi ích.

 

Pháp Thoại

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Tin mới

Đọc nhiều

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 64766
  • Online: 30