Tham Thiền Yếu Chỉ Giảng Giải - Phần 4: Đêm Trừ Tịch Uống Phổ Trà Dạy Chúng; Phần 5: Tu Cùng Không Tu
20/06/2025 | Lượt xem: 21
HT.Hư Vân
HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng
PHẦN IV: ĐÊM TRỪ TỊCH UỐNG PHỔ TRÀ DẠY CHÚNG
Chánh văn:
Chư vị Thượng tọa! Đêm nay là ba mươi tháng Chạp rồi, đại chúng đều nhận đã một năm qua, Thường trụ không có món gì ngon cúng dường, xin thỉnh chư vị uống một chung trà. Chiếu theo sách lịch một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông; mười hai tháng và hai mươi bốn tiết. Người đời hầu hết đều căn cứ theo thời tiết mà làm việc. Như nhà nông thì mùa xuân cày, mùa hạ bừa, mùa thu gieo, mùa đông gặt. Thợ thầy thì khởi công đình công. Buôn bán thì khai trương kiết trướng. Trường học thì tựu trường bãi trường. Chúng ta người xuất gia thì kiết chế giải chế, thỉnh chức thối chức. Không một nghề nào mà chẳng căn cứ thời tiết làm việc.
Thông thường người ta cho cuối năm là rất quan trọng, cần phải thu nhặt những việc đã làm trong năm tổng kết lại, đồng thời cần phải nghỉ mấy ngày.
Chúng ta có duyên lành hãnh diện ngày nay đồng ở tại Vân Môn bình yên qua một năm. Đó là nhờ Phật tổ Bồ-tát gia hộ và long thiên phù trì, cũng do chúng ta nhiều kiếp tài bồi công đức mới cảm được quả tốt này. Nhưng, chúng ta được bình yên qua năm không thể quên được những người đang sống trong thống khổ. Chúng ta không thể thích thú vui cười, cần phải tỉnh xét ăn năn sám hối, tinh tấn tu hành tự lợi lợi tha, khuếch trương phước tuệ. Những vị già, cái chết đến trong chớp mắt cần phải tinh tấn dõng mãnh tu hành. Những người trẻ, cũng không nên lửng lơ qua ngày, phải biết con đường huỳnh tuyền không lựa già hay trẻ, mồ hoang biết bao người trẻ tuổi. Tóm lại, tất cả đều sớm nỗ lực cầu thoát khỏi vòng sanh tử mới là thượng kế.
Chúng ta lâu nay mỗi ngày thường uống trà, tại sao hôm nay gọi “uống phổ trà”? Ấy là do lòng nhân từ của tiền bối mượn uống trà để cảnh tỉnh môn đồ. Xưa lão nhân Triệu Châu đạo đức cao siêu, học giả mười phương đến tham học rất đông. Một hôm, có hai vị tăng mới đến, Triệu Châu chỉ một vị hỏi: “Thượng tọa từng đến đây chưa?” Vị tăng thưa: “Chưa từng đến.” Triệu Châu bảo: “Uống trà đi!” Lại hỏi vị tăng khác: “Từng đến đây chưa?” Vị tăng ấy thưa: “Đã từng đến đây.” Triệu Châu bảo: “Uống trà đi!” Viện chủ bạch: “Người chưa từng đến dạy uống trà còn có thể được, người đã từng đến vì sao cũng dạy uống trà đi?” Triệu Châu gọi “Viện chủ!” Viện chủ đáp: “Dạ!” Triệu Châu bảo: “Uống trà đi!” Như thế, cả ba người đều được lợi ích. Sau này truyền khắp thiên hạ “Trà Triệu Châu”. Lại như tổ Vân Môn ở đây, có một học giả đến yết kiến, ngài bèn cầm cái bánh đưa lên, học giả liền lãnh hội. Do đó thiên hạ lưu truyền “Bánh Vân Môn”, “Trà Triệu Châu”. Hiện giờ chư vị uống trà, ăn bánh đã ngộ chưa? Nếu như chưa ngộ, phải dùng cách hỏi: “Uống trà là gì?”, “Ăn bánh là gì?” Đại để người xưa mỗi niệm hợp đạo, mỗi bước đều vô sanh, nên trải qua một câu cảnh tỉnh liền được ngộ đạo. Người nay phạm hạnh chưa trong sạch thường ở trong động, mỗi niệm sanh diệt che lấp sâu dày, làm sao chỉ dạy pháp, cũng không giáo hóa người khác. Cho nên chư vị phải buông hết tất cả, không cho phàm tình vọng niệm làm nhiễm ô chân tâm sáng suốt của mình. Cổ nhân nói: “Chỉ dứt hết phàm tình, không riêng có thánh giải.” Các ông nay uống trà, nếu không biết hương vị của trà thì đồng cây đá, nếu biết hương vị của trà, ấy là phàm phu. Làm sao bỏ được hai bên có và không này, đó là bổn phận của tăng sĩ vậy. Tuy nhiên, siêu thoát hai cái hiểu biết này vẫn còn sinh hoạt trong hang quỷ. Các ông phải kỹ càng “Buông hết thân tâm, chớ theo các cơ quan mà chuyển động”, ngay đó tham đi!
Giảng:
Chư vị Thượng tọa! Đêm nay là ba mươi tháng Chạp rồi, đại chúng đều nhận đã một năm qua, Thường trụ không có món gì ngon cúng dường, xin thỉnh chư vị uống một chung trà. Chiếu theo sách lịch một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông; mười hai tháng và hai mươi bốn tiết. Người đời hầu hết đều căn cứ theo thời tiết mà làm việc. Như nhà nông thì mùa xuân cày, mùa hạ bừa, mùa thu gieo, mùa đông gặt. Thợ thầy thì khởi công đình công. Buôn bán thì khai trương kiết trướng. Trường học thì tựu trường bãi trường. Chúng ta người xuất gia thì kiết chế giải chế, thỉnh chức thối chức. Không một nghề nào mà chẳng căn cứ thời tiết làm việc. Thông thường người ta cho cuối năm là rất quan trọng, cần phải thu nhặt những việc đã làm trong năm tổng kết lại, đồng thời cần phải nghỉ mấy ngày.
Chúng ta có duyên lành hãnh diện ngày nay đồng ở tại Vân Môn bình yên qua một năm. Đó là nhờ Phật tổ Bồ-tát gia hộ và long thiên phù trì, cũng do chúng ta nhiều kiếp tài bồi công đức mới cảm được quả tốt này. Nhưng, chúng ta được bình yên qua năm không thể quên được những người đang sống trong thống khổ. Chúng ta không thể thích thú vui cười, cần phải tỉnh xét ăn năn sám hối, tinh tấn tu hành tự lợi lợi tha, khuếch trương phước tuệ. Những vị già, cái chết đến trong chớp mắt cần phải tinh tấn dõng mãnh tu hành. Những người trẻ, cũng không nên lửng lơ qua ngày, phải biết con đường huỳnh tuyền không lựa già hay trẻ, mồ hoang biết bao người trẻ tuổi. Tóm lại, tất cả đều sớm nỗ lực cầu thoát khỏi vòng sanh tử mới là thượng kế.
Vân Môn ở gần Thiều Quan, từ Tào Khê lên đó hơn sáu mươi cây số. Đêm trừ tịch là đêm ba mươi tết, ngài nhắc chúng gắng nỗ lực tu hành. Qua một năm, người già thì cái chết kề bên, còn người trẻ cũng không hiếm gì mồ tuổi trẻ. Chết không từ bỏ ai, tới thì phải chịu thôi. Cho nên đừng xem thường mà lơ lửng qua ngày, phải cầu thoát ly sanh tử mới được.
Chúng ta lâu nay mỗi ngày thường uống trà, tại sao hôm nay gọi “uống phổ trà”? Ấy là do lòng nhân từ của tiền bối mượn uống trà để cảnh tỉnh môn đồ. Xưa lão nhân Triệu Châu đạo đức cao siêu, học giả mười phương đến tham học rất đông. Một hôm, có hai vị tăng mới đến, Triệu Châu chỉ một vị hỏi: “Thượng tọa từng đến đây chưa?” Vị tăng thưa: “Chưa từng đến.” Triệu Châu bảo: “Uống trà đi!” Lại hỏi vị tăng khác: “Từng đến đây chưa?” Vị tăng ấy thưa: “Đã từng đến đây.” Triệu Châu bảo: “Uống trà đi!” Viện chủ bạch: “Người chưa từng đến dạy uống trà còn có thể được, người đã từng đến vì sao cũng dạy uống trà đi?” Triệu Châu gọi “Viện chủ!” Viện chủ đáp: “Dạ!” Triệu Châu bảo: “Uống trà đi!” Như thế, cả ba người đều được lợi ích. Sau này truyền khắp thiên hạ “Trà Triệu Châu”.
Như vậy ngài Triệu Châu dạy đạo lý gì? Người mới tới lần đầu, dạy uống trà đi! Người tới nhiều lần, cũng dạy uống trà đi! Viện chủ hỏi, ngài cũng bảo uống trà đi!
Để làm sáng tỏ câu chuyện này tôi dẫn thêm một đoạn, ngài Vô Trước lên Ngũ Đài Sơn tìm Bồ-tát Văn-thù. Vào động được mời uống trà, Bồ-tát Văn-thù đưa chung trà lên hỏi:
- Ở phương nam có cái này không?
Tưởng là hỏi cái chung, nên ngài đáp không có. Bồ-tát Văn-thù nói:
- Nếu không có, lấy gì uống trà?
Ngài Vô Trước giật mình. Hóa ra chỗ Bồ-tát Văn-thù hỏi không phải là chung trà, mà là cái “biết uống trà”.
Tất cả chúng ta người nào cũng có cái biết uống trà, biết ăn cơm, biết đi, biết lạy... Vậy tại sao lại bỏ quên? Nếu khi uống trà chỉ biết uống, khi ăn cơm chỉ biết ăn thôi thì đâu có khổ. Bởi chúng ta chấp vào mùi vị ngon dở nên uống mà không biết uống, ăn cũng không biết ăn, thành ra quên mất cái thật. Cho nên ngài Triệu Châu không dạy gì hết, chỉ bảo uống trà đi. Bấy nhiêu đó là quá đủ rồi, cả ba vị nghe đều được lợi ích.
Lại như tổ Vân Môn ở đây, có một học giả đến yết kiến, ngài bèn cầm cái bánh đưa lên, học giả liền lãnh hội. Do đó thiên hạ lưu truyền “Bánh Vân Môn”, “Trà Triệu Châu”.
Cầm cái bánh đưa lên liền lãnh ngộ. Bảo uống trà, ăn bánh... có nói pháp gì đâu mà người học ngộ? Chúng ta cứ kiếm tìm pháp nào nghe siêu đẳng mới thích, còn những việc thực tế ngay nơi mình thì thấy tầm thường, mà không biết chính trong cái tầm thường đó lại ẩn chứa cái chân thật sẵn có, hay nói cách khác là chân lý hết sức đơn giản. Nhưng nói tu mà nghe đơn giản quá không thích, nói “tu được chứng đắc, được nhập Niết-bàn”... mới chịu. Do đó cứ quanh quẩn trong từ ngữ, ngôn cú, hình tướng v.v... nên không tìm ra được lẽ thật.
Hiện giờ chư vị uống trà, ăn bánh đã ngộ chưa? Nếu như chưa ngộ, phải dùng cách hỏi: “Uống trà là gì?”, “Ăn bánh là gì?” Đại để người xưa mỗi niệm hợp đạo, mỗi bước đều vô sanh, nên trải qua một câu cảnh tỉnh liền được ngộ đạo. Người nay phạm hạnh chưa trong sạch thường ở trong động, mỗi niệm sanh diệt che lấp sâu dày, làm sao chỉ dạy pháp, cũng không giáo hóa người khác. Cho nên chư vị phải buông hết tất cả, không cho phàm tình vọng niệm làm nhiễm ô chân tâm sáng suốt của mình. Cổ nhân nói: “Chỉ dứt hết phàm tình, không riêng có thánh giải.”
Trong kinh Lăng-nghiêm, đức Phật dạy: Chỉ dứt hết phàm tình, không riêng có thánh giải. Thánh đã sẵn nhưng bị phàm tình che, bây giờ bỏ phàm tình thì thánh hiện ra thôi. Đơn giản! Vậy mà mình còn không muốn bỏ phàm tình, chỉ lo cầu được có thần thông phép lạ.
Các ông nay uống trà, nếu không biết hương vị của trà thì đồng cây đá, nếu biết hương vị của trà ấy là phàm phu. Làm sao bỏ được hai bên có và không này, đó là bổn phận của tăng sĩ vậy. Tuy nhiên, siêu thoát hai cái hiểu biết này vẫn còn sinh hoạt trong hang quỷ. Các ông phải kỹ càng “Buông hết thân tâm, chớ theo các cơ quan mà chuyển động”, ngay đó tham đi!
Uống trà mà không biết hương vị thì giống như cây đá, còn uống mà biết hương vị ngon dở thì đồng phàm phu, vậy làm sao đúng? Uống trà đi!
Buông hết thân tâm, chớ theo các cơ quan mà chuyển động. Dù cho khéo biết được những lời dạy này, cũng phải buông hết thân tâm, đừng theo các cơ quan mắt tai mũi lưỡi thân ý chuyển động dính mắc, ngay đây liền sáng ngời. Đó là chỗ đặc biệt.
***
PHẦN V: TU CÙNG KHÔNG TU
Chánh văn:
Giảng tu hành, giảng không tu hành đều là câu nói suông. Chúng ta thấu triệt tâm quang của mình rồi, liền đó không có một việc thì còn cái gì mà nói tu không tu. Thử xem chỗ hiển bày của đức Bổn sư Thích-ca-mâu-ni, xuất gia hỏi đạo, sau sáu năm khổ hạnh chứng đạo, khi sao mai mọc, ngài than: “Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ Như Lai, chỉ vì vọng tưởng chấp trước không thể chứng được. Nếu lìa vọng tưởng là Thanh tịnh trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí tự nhiên hiện tiền.” Về sau nói pháp bốn mươi chín năm, mà ngài tuyên bố: “Ta chưa từng nói đến một chữ.” Sau này, trải qua chư vị tổ sư một mạch truyền nối đều nhận định “Tâm, Phật, chúng sanh ba cái không khác”, “Chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật”.
Nói ngang, nói dọc, hoặc đánh, hoặc nạt đều vì đoạn trừ phân biệt vọng tưởng của học giả, cốt cho học giả thẳng đó “biết được bản tâm, thấy được bản tánh của mình”. Không nương vào một chút phương tiện nói tu nói chứng. Ý chỉ của Phật tổ, chúng ta đã thấy rõ ràng lắm vậy.
Một niệm tâm hiện tiền của chúng ta xưa nay vẫn thanh tịnh, vẫn tự đầy đủ, bủa trùm khắp giáp, diệu dụng hằng sa cùng với chư Phật ba đời không khác. Chỉ cần không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không nghĩ gì cả, liền đó có thể thành Phật, ngồi một chỗ mà thiên hạ thái bình. Như thế, còn có hạnh nào đáng tu, giảng tu hành đâu không phải là câu nói suông. Nhưng một niệm tâm hiện tiền của chúng ta đang hướng ngoại tìm cầu, vọng tưởng chấp trước không thể rời được, từ vô thủy đến nay lưu chuyển trong sanh tử, vô minh phiền não nhiễm quá sâu dày, ban đầu không biết tự tâm là Phật, biết rồi cũng chẳng chịu thừa đương, không thể làm chủ được, không có cái dũng khí của người tráng sĩ chặt tay, hằng ngày ở trong vọng tưởng chấp trước. Người bậc thượng, trọn ngày làm thế này thế nọ, cầu thiền cầu đạo, mà không thể rời được hữu tâm. Người bậc hạ, tham sân si ái bền chặt không thể phá, chạy ngược với đạo. Hai hạng người này trầm luân trong sanh tử không biết chừng nào dứt, nếu giảng không tu hành đâu không phải lời nói suông?
Các bậc đại trượng phu nhận định đã thấu triệt, biết rõ muôn sự muôn vật xưa nay đều là giấc mơ, huyễn hóa, hòn bọt, cái bóng không có tự tánh, nhân và pháp liền không, muôn duyên đều dứt, một niệm là muôn năm, thẳng đến chỗ vô sanh. Người bàng quan nhìn vào thấy bậc ấy cũng mặc áo, ăn cơm, đi đứng ngồi nằm như người thường. Đâu biết bậc ấy đang ngồi yên trong nhà thái bình thanh tịnh của mình, hưởng thụ kho báu vô tận, không khởi tâm không tạo tác, tự do tự tại, động tịnh đều là như như, lạnh hay nóng chỉ vị ấy tự biết mà thôi. Không những người, trời, quỷ thần trong tam giới lục đạo nhìn vị ấy không thấu, chính là chư Phật Bồ-tát cũng chẳng làm gì được người ấy. Đối với bậc này, còn nói cái gì là tu hành hay không tu hành?
Hạng kế đó, cần phải phát khởi chí hướng, thống thiết nhớ việc chết sống, phát tâm hổ thẹn, khởi hạnh tinh tấn, hỏi đạo và cố gắng tham thiền; thường cầu thỉnh các bậc thiện tri thức chỉ dạy lối tắt, phân biệt thế nào là chánh, là tà; tha thiết giũa mài, lấy nước sông Hán mà rửa, đem ra mặt trời Thu mà phơi, dần dần càng được tinh thuần trắng sạch. Với hạng người này không thể không nói tu hành.
Đã nói từ trước đến đây chẳng qua dời trên đổi dưới đều thuộc phương tiện tạm thời, người mắt sáng xem qua cốt nhận “vạch bùn lấy nước”. Song Tổ đình đã cuối thu, cách Phật ngày càng xa thẳm, vì ứng hợp căn cơ chúng sanh, bất đắc dĩ mới giảng giải thế này. Xét thật, giảng tu hành, giảng không tu hành đều là lời nói suông. Thẳng đó là vô sự, vốn không có một vật, đâu phiền mở miệng. Các Bồ-tát hội chăng?
Giảng:
Giảng tu hành, giảng không tu hành đều là câu nói suông. Chúng ta thấu triệt tâm quang của mình rồi, liền đó không có một việc thì còn cái gì mà nói tu không tu. Thử xem chỗ hiển bày của đức Bổn sư Thích-ca-mâu-ni, xuất gia hỏi đạo, sau sáu năm khổ hạnh chứng đạo, khi sao mai mọc, ngài than: “Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ Như Lai, chỉ vì vọng tưởng chấp trước không thể chứng được. Nếu lìa vọng tưởng là Thanh tịnh trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí tự nhiên hiện tiền.”
Ngài dẫn kinh Hoa Nghiêm. Sau khi đức Phật thành đạo, ngài than: Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ Như Lai, chỉ vì vọng tưởng chấp trước không thể chứng được. Nếu lìa vọng tưởng là Thanh tịnh trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí tự nhiên hiện tiền. Đức Phật cũng từng tuyên bố “Ta học đạo không thầy”. Bởi vì khi thanh tịnh rồi thì tâm chân thật hiện tiền, mà trong đây Phật gọi là Tự nhiên trí, Thanh tịnh trí, Vô sư trí, là trí sẵn có của chính mình chứ không phải ai đem cho mình. Tại sao chúng ta cũng có trí đó mà không hiện? Vì vọng tưởng điên đảo. Cho nên khi tu, vọng tưởng khởi lên buông bỏ không theo là một cách để cho trí tuệ hiện tiền. Lời Phật dạy chỉ thẳng cho biết cái thật, nhưng vì chúng ta dễ quên hoặc không quan tâm, nên khiến cho cái thật cứ cách xa mình.
Về sau nói pháp bốn mươi chín năm, mà ngài tuyên bố: “Ta chưa từng nói đến một chữ.”
Phật nói pháp bốn mươi chín năm mà lại tuyên bố Ta chưa từng nói một chữ. Tại sao? Vì tất cả pháp ngài nói đều là phương tiện, chứ không phải cái thật. Cái thật của mọi người nói không tới, chỉ không được, cho nên mượn ngón tay cốt để chỉ mặt trăng mà thôi.
Sau này, trải qua chư vị tổ sư một mạch truyền nối đều nhận định “Tâm, Phật, chúng sanh, ba cái không khác”, “Chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật”. Nói ngang, nói dọc, hoặc đánh, hoặc nạt đều vì đoạn trừ phân biệt vọng tưởng của học giả, cốt cho học giả thẳng đó “biết được bản tâm, thấy được bản tánh của mình”. Không nương vào một chút phương tiện nói tu nói chứng. Ý chỉ của Phật tổ, chúng ta đã thấy rõ ràng lắm vậy.
Phật và chúng sanh đều cùng có tâm này, ngộ là Phật mà quên thì làm chúng sanh. Lời của Phật tổ chỉ dạy hết sức rõ ràng cụ thể, do chúng ta mê chấp nên không tin đến được.
Một niệm tâm hiện tiền của chúng ta xưa nay vẫn thanh tịnh, vẫn tự đầy đủ, bủa trùm khắp giáp, diệu dụng hằng sa cùng với chư Phật ba đời không khác. Chỉ cần không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không nghĩ gì cả, liền đó có thể thành Phật, ngồi một chỗ mà thiên hạ thái bình.
Đừng nghĩ thiện, đừng nghĩ ác, đừng nghĩ gì hết mà thấy nghe hiểu biết rõ ràng. Nghe dễ như trở bàn tay mà sao chúng ta thấy khó khăn, không làm được? Suy nghĩ là quyền của mình, mình có quyền nghĩ và có quyền dừng. Nhưng vì chúng ta đã quen nghĩ tưởng, nên chỉ biết nghĩ mà không biết dừng, bảo dừng nghĩ tưởng thì hoảng sợ không làm được, vì vậy việc tu trở thành khó khăn.
Như thế, còn có hạnh nào đáng tu, giảng tu hành đâu không phải là câu nói suông.
Buông hết đừng nghĩ tưởng thì có gì để tu. Thông thường nói tu là phải tu hạnh này hạnh kia, như tu hạnh nhẫn nhục, bố thí, trì giới v.v... Nhưng phải biết, tu những hạnh đó là để bổ túc cho cái đừng nghĩ tưởng, cội gốc là phải buông hết những suy nghĩ. Vọng tưởng không chịu buông thì dù tu hạnh nào cũng không tới đâu. Ví dụ có người thương chúng sanh phát tâm bố thí, nhưng nếu có điều gì trái nghịch thì nổi sân liền. Từ bi là Phật, nổi sân là ma. Ma và Phật kề một bên. Chúng ta chưa thật từ bi, vì chưa làm chủ được tâm mình. Khi nào muốn nghĩ thì nghĩ, không muốn thì dừng thì khi ấy không cần ngồi thiền vẫn luôn an định, tới lui làm tất cả việc mà không dấy động, an nhàn thong thả.
Nhưng một niệm tâm hiện tiền của chúng ta đang hướng ngoại tìm cầu, vọng tưởng chấp trước không thể rời được, từ vô thủy đến nay lưu chuyển trong sanh tử, vô minh phiền não nhiễm quá sâu dày, ban đầu không biết tự tâm là Phật, biết rồi cũng chẳng chịu thừa đương, không thể làm chủ được, không có cái dũng khí của người tráng sĩ chặt tay, hằng ngày ở trong vọng tưởng chấp trước. Người bậc thượng, trọn ngày làm thế này thế nọ, cầu thiền cầu đạo, mà không thể rời được hữu tâm. Người bậc hạ, tham sân si ái bền chặt không thể phá, chạy ngược với đạo. Hai hạng người này trầm luân trong sanh tử không biết chừng nào dứt, nếu giảng không tu hành đâu không phải lời nói suông?
Trước không biết thì thôi, bây giờ được nghe được biết rồi thì cần có dũng khí của tráng sĩ chặt tay, tức phải như tổ Huệ Khả, dám liều chết để cầu đạo. Việc này chúng ta không thừa đương được, vì thiếu dũng khí và chỉ lo hướng ngoại tìm cầu.
Các bậc đại trượng phu nhận định đã thấu triệt, biết rõ muôn sự muôn vật xưa nay đều là giấc mơ, huyễn hóa, hòn bọt, cái bóng không có tự tánh, nhân và pháp liền không, muôn duyên đều dứt, một niệm là muôn năm, thẳng đến chỗ vô sanh. Người bàng quan nhìn vào thấy bậc ấy cũng mặc áo, ăn cơm, đi đứng ngồi nằm như người thường. Đâu biết bậc ấy đang ngồi yên trong nhà thái bình thanh tịnh của mình, hưởng thụ kho báu vô tận, không khởi tâm, không tạo tác, tự do tự tại, động tịnh đều là như như, lạnh hay nóng chỉ vị ấy tự biết mà thôi. Không những người, trời, quỷ thần trong tam giới lục đạo nhìn vị ấy không thấu, chính là chư Phật Bồ-tát cũng chẳng làm gì được người ấy. Đối với bậc này, còn nói cái gì là tu hành hay không tu hành?
Bậc đại trượng phu thì thấy rõ tất cả pháp như huyễn hóa không thật nên không một niệm dính mắc. Không dính mắc tức một niệm muôn năm, thẳng đến chỗ vô sanh. Đối với người này thì cần gì nói tu hành. Không nói tu hành mà có tu hành không? Thông thường cho rằng tu là ăn chay nhiều ít, giữ được mấy giới, tham sân si bỏ được bao nhiêu v.v... Tại vì chúng ta dính mắc nên phải gỡ lần lần, đôi khi năm giới giữ còn không tròn, vì vậy mà phải nói tu. Nếu buông xả được tất cả trọn không dính thì đâu cần nói tu làm gì nữa.
Hạng kế đó, cần phải phát khởi chí hướng, thống thiết nhớ việc chết sống, phát tâm hổ thẹn, khởi hạnh tinh tấn, hỏi đạo và cố gắng tham thiền; thường cầu thỉnh các bậc thiện tri thức chỉ dạy lối tắt, phân biệt thế nào là chánh, là tà; tha thiết giũa mài, lấy nước sông Hán mà rửa, đem ra mặt trời Thu mà phơi, dần dần càng được tinh thuần trắng sạch. Với hạng người này không thể không nói tu hành.
Đã nói từ trước đến đây chẳng qua dời trên đổi dưới đều thuộc phương tiện tạm thời, người mắt sáng xem qua cốt nhận “vạch bùn lấy nước”. Song Tổ đình đã cuối thu, cách Phật ngày càng xa thẳm, vì ứng hợp căn cơ chúng sanh, bất đắc dĩ mới giảng giải thế này. Xét thật, giảng tu hành, giảng không tu hành đều là lời nói suông. Thẳng đó là vô sự, vốn không có một vật, đâu phiền mở miệng. Các Bồ-tát hội chăng?
Ngài gọi tất cả chúng là Bồ-tát, các ngài có hiểu không? Tu hành mỗi ngày phải mài giũa, phải cố gắng. Tuy chưa buông hết được, nhưng nếu chịu gỡ từ từ mỗi ngày một ít thì việc tu hành cũng được tăng tiến. Đến đây là kết thúc những lời nhắc nhở tu hành của ngài Hư Vân.
Phần tôi, trong mấy năm qua mỗi tháng tôi giảng một lần, từ quyển Thiền Tông Vĩnh Gia Tập, Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn, Truyền Gia Bảo Thiền Tông Trực Chỉ, Tọa Thiền Dụng Tâm Ký, cho đến quyển Tham Thiền Yếu Chỉ này. Tất cả những gì tôi nói cũng là ảo hóa không thật, cốt yếu là muốn nhắc qua một chút phương tiện để mọi người tiến tu, biết nhận ra cái thật ngay nơi mỗi người và biết sống trở lại với cái thật đó, đừng chạy ra bên ngoài tìm cầu nữa.
Việc tu không phải chỉ riêng hàng xuất gia, mà Phật tử cũng cần khéo tu, khéo sống với đạo, vượt ra ngoài những thứ khổ ải mà mỗi người đang bị nhấn chìm. Các vị đã là Phật tử, đừng để người khác gọi mình là tín đồ đạo Phật. Bởi vì đạo Phật là đạo giác ngộ, Chúng ta học đạo giác ngộ thì tự mình phải là người giác, dù mới giác nhỏ nhỏ thôi nhưng cũng có giác, nên mới được gọi là Phật tử. Nên nhớ, giác chứ không phải tin. Do giác mới buông xả cố chấp, mới thấy được những sai lầm để từ bỏ. Như vậy tu tiến được là nhờ có giác, chứ không phải chỉ tin suông. Nếu tu mà không giác thì dù tu bao lâu cũng là tu mù, vì thiếu sự sáng suốt. Trước kia chưa học đạo chúng ta như người mù, bây giờ học đạo rồi ít ra cũng sáng được đôi phần, hoặc ai giỏi hơn thì sáng luôn càng quý, chứ đừng mê mờ như cũ. Mong tất cả cố gắng tinh tấn tu hành.
Các bài mới
- Tham Thiền Yếu Chỉ Giảng Giải - Phần 3: Lời Nhắc Khi Tham Thiền - 20/06/2025
- Tham Thiền Yếu Chỉ Giảng Giải - Phần 2: Thiền Đường Chỉ Dạy - 03/06/2025
- Tham Thiền Yếu Chỉ Giảng Giải - Phần 1: Điều Kiện Quyết Định Đầu Tiên Của Sự Tham Thiền - 28/05/2025
- Truyền Gia Bảo Thiền Tông Trực Chỉ (Phần 03) - 10/03/2025
- Truyền Gia Bảo Thiền Tông Trực Chỉ ( Phần 02) - 03/03/2025
Các bài đã đăng
- Truyền Gia Bảo Thiền Tông Trực Chỉ ( Phần 01) - 10/02/2025
- Đạt Ma Tổ sư luận giảng lục- Phần 1: Huyết mạch luận - 06/11/2024
- Thiền Tông Vĩnh Gia Tập Giảng Giải - Phần 9: Chương IX: Thư Khuyên Bạn Hữu; Chương X: Văn Phát Nguyện - 18/03/2024
- Thiền Tông Vĩnh Gia Tập Giảng Giải - Phần 8: Chương VIII: Sự Lý Không Hai - 15/03/2024
- Thiền Tông Vĩnh Gia Tập Giảng Giải - Phần 7: Chương VII: Cấp Bậc Lần Lượt Của Ba Thừa - 14/02/2024
Kinh - Luật - Luận
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Video mới
- Thanh Từ Toàn Tập - Quyển 13: Đại Thừa Khởi Tín Luận, Thập Nhị Môn Luận giảng giải
- Thanh Từ Toàn Tập - Quyển 12: Trung Luận Giảng Giải
- Thanh Từ Toàn Tập-Quyển 11: Kinh Hoa Nghiêm Trích Giảng (Phần 02)
- Thanh Từ Toàn Tập - Quyển 10: Kinh Hoa Nghiêm Trích Giảng (Phần 01)
- Thanh Từ Toàn Tập - Quyển 9: Kinh Đại Bát Niết-Bàn trích giảng
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 65034
- Online: 11