Ta là gì ?
26/02/2016 | Lượt xem: 5368
I. XÁC ĐỊNH RÕ CÁI GÌ LÀ TA? 
Nói    chung, Đức Phật ra đời thuyết pháp độ sanh, cũng để chỉ rõ cho người    nhận kỹ điều này, khiến người mở sáng mắt đạo, thấy đúng lẽ thật nơi  con   người đang sống giữa cuộc đời này chứ gì? Nghĩa là, sống mà không  biết   gì là Ta?
Ai   đang sống đây? Thì sao gọi là sống? Chính mình là chủ của cuộc sống,   bao nhiêu thứ tạo tác cũng để vì mình, mà hỏi đến: Mình là gì? Thì chới   với, lúng túng đáp không xong, vậy cái gì sống đây? Sống có ý nghĩa gì?   Đó gọi là sống cũng như chết. Con người thông thường cứ lo tìm biết  điều  này, điều nọ, biết cả trên sao Hỏa, sao Mộc, nhưng khi hỏi đến: TA LÀ GÌ ? Trả lời không thông, thử hỏi có thực tế chưa? Hòa Thượng có ví dụ, một   người chủ nhà, hỏi đến việc nhà người này, người khác thì trả lời vanh   vách, nhưng khi hỏi đến việc nhà mình thì ú ớ không thông, vậy là chúng   ta sẽ kết luận thế nào? Người đó có thực tế hay không ? 
Điều quan   trọng nhất là, đối với việc tu hành, nếu chúng ta không rõ được điều  này  cho chính xác thì tu hành khó tiến được, có khi còn lầm lạc nữa là   khác. Chẳng hạn, nếu không rành rõ, đem cái ta giả dối này, làm cái  nhân  để tu cầu giải thoát thì càng tu e càng phiền não thêm, hoặc càng  tu,  tình chấp ngã càng nặng thêm, tức cách xa con đường giải thoát. Bởi  lầm  lẫn “nhân quả” tu hành, lấy cái nhân sanh tử làm giải thoát, làm  sao đến  được giải thoát chân thật? Chính vì vậy, trước thời Phật ra  đời, ở Ấn  Độ có nhiều vị tu hành rất công phu, có sức thiền định cao,  nhưng vẫn  lẩn quẩn trong sanh tử. Như chuyện vị Phạm Chí Hắc Thị tu đắc  năm thần  thông, thuyết pháp rất hay, đến cả trời Đế Thích cũng xuống  nghe pháp.  Song, một hôm nghe vị ấy giảng xong, trời Đế Thích tỏ vẻ  buồn bã rơi lệ.  Phạm Chí thấy lạ bèn hỏi: 
- Ngài vì sao buồn khóc như thế? 
Trời Đế Thích nói: 
- Tôi nghe Ngài giảng pháp rất hay, song tôi biết rõ tuổi thọ của Ngài chỉ còn bảy ngày nữa thôi. 
Phạm   Chí nghe xong hoảng sợ, xin Trời Đế Thích cứu cho. Trời Đế Thích từ   chối mà chỉ ông đến Đức Phật. Phạm Chí bèn vội đến chỗ Phật, trên đường   ông thấy hai cây ngô đồng đang trổ hoa đẹp, liền dùng thần thông nhổ cả   hai cây bưng trên hai tay đến cúng dường Phật. Phật gọi tiên nhân Phạm   Chí bảo: 
- Hãy buông đi! 
Phạm Chí liền buông cây hoa ngô đồng trên tay trái. Phật lại bảo: 
- Buông đi! 
Phạm Chí buông tiếp cây hoa ngô đồng trên tay phải. Phật lại bảo tiếp: 
- Buông đi! 
Phạm Chí liền thưa: 
- Bạch Thế Tôn! Hai tay con đều trống cả rồi, Ngài còn bảo con buông cái gì nữa? 
Phật bảo: 
-   Ta chẳng phải bảo ông buông gốc hoa đó, mà chính là bảo ông buông xả   sáu trần bên ngoài, sáu căn bên trong và sáu thức ở giữa kia kìa; tất cả   một lúc buông sạch hết KHÔNG CÒN CHỖ NÀO ĐỂ BUÔNG NỮA, ngay đó CHÍNH  LÀ  CHỖ ÔNG THOÁT KHỎi SANH TỬ. 
Phạm Chí ngay đó liền tỏ ngộ pháp vô sanh, lễ tạ Phật. 
Như   vậy, cho thấy rằng, dù tu đắc năm thần thông mà chưa đạt lậu tận  thông,  tức sạch hết tình chấp ngã này, vẫn chưa khỏi vòng sanh tử luân  hồi.  Vậy thì, ngay đây chúng ta hãy xác định rõ xem: Cái gì là Ta? Cái  thây  thúi 60, 70 ký lô này chăng? Cái khối đen trắng, mập ốm, cao thấp  nầy  chăng? Cái buồn thương, giận ghét, ích kỷ, kiêu căng hơn thua, ta  người  này chăng? Nếu cái Ta chỉ có bấy nhiêu đó, thì cuối cùng sẽ ra  sao? Tức  là chung cuộc sẽ: Ô hô! Ra nghĩa địa! Tổ Lâm Tế từng dạy: “Này  huynh đệ!  Các ông chớ nhận lấy kẻ bạn mộng huyễn này, trong khoảng sớm  chiều nó  liền trở về vô thường. Các ông nhằm trong thế giới này tìm  vật gì làm  giải thoát? Tìm một miếng cơm ăn, một manh áo vá qua ngày ư?  Cốt phải  tìm hỏi bậc tri thức, chớ lần lựa đuổi theo thú vui! Thời giờ  đáng tiếc,  niệm niệm vô thường, thô thì bị đất nước gió lửa, tế thì bị  bốn tướng  sanh trụ dị diệt”. Đó là Ngài nhắc nhở cho người, phải tìm  lấy một cái  gì chân thật làm chỗ nương tựa vững bền lâu dài, chớ bám  vào cái xác  thân mộng huyễn vô thường này, dù cố gìn giữ cách mấy, cuối  cùng cũng  phải bỏ lại, tan hoại trả về với cát bụi! Người có thực tâm  tu hành có  thể lơ là với việc này sao?
II. CHẤP NGÃ LÀ VÔ MINH ĐIÊN ĐẢO 
Chính   vì sự mê lầm, chấp trước lẫn lộn trái ngược trên đây, mà Đức Phật gọi   chúng ta là vô minh điên đảo. Kinh Viên Giác Phật từng định nghĩa vô   minh như sau: “Phật bảo Bồ Tát Văn Thù: Nhân địa tu hành từ xưa của Như   Lai là y tánh Viên Giác thanh tịnh mà dứt hẳn vô minh mới thành Phật.   Thế nào là vô minh?… Tức tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, bị nhiều   thứ điên đảo giống như kẻ mê, thấy bốn phương dời đổi, vọng nhận tứ đại   làm tướng tự thân, bóng dáng duyên nơi sáu trần làm tướng tự tâm… do  đó  mà vọng có sự lưu chuyển trong sanh tử, nên gọi là vô minh”. 
Tức  là  Đức Phật muốn chỉ, chúng ta cứ chấp càn xác thân tứ đại giả hợp này  làm  ta, chấp bướng tâm suy nghĩ phân biệt sanh diệt lăng xăng duyên  theo  bóng dáng sáu trần làm ta, đó gọi là vô minh. Nghĩa là nhận cái  sanh  diệt tạm bợ làm ta, không vô minh là gì? Ta là cái sanh diệt như  vậy  sao? Bài Tâm Kinh Bát Nhã đã nói ngay từ đầu “Bồ Tát thực hành sâu Bát Nhã ba la mật đa, soi thấu năm uẩn đều không”. Là không thực có cái Ta trong đó. Song đây cũng chỉ là danh tự, chúng ta phải soi thấu: “THẾ NÀO LÀ KHÔNG ?” bằng chính trí tuệ của chính mình mới là điều quan trọng. Đây chúng ta hãy soi một cách đơn giản thế này: 
- SẮC, là   đối với tâm mà có, mà tồn tại. Không có tâm, sắc này là xác chết thôi.   Nói rộng ra, không có tâm thì cái gì biết sắc? Dù có sắc, sắc đó cũng   như không, cũng là thế giới chết chứ gì. Do đối đãi mà thành, tự nó   không có thật thể cố định, đó là sắc tức không rõ ràng không nghi. 
- THỌ,   đối với cảnh bị thọ mà có, tức luôn luôn có thọ một cái gì. Nếu không   có đối tượng để thọ, thì thọ mất bóng, rõ ràng nó không có tự thể hằng   hữu, thọ tức là không. 
- TƯỞNG, cũng luôn luôn  tưởng một  cái gì, phải có đối tượng để tưởng. Chúng ta thử tưởng một cái  gì không  có đối tượng để tưởng xem! Làm sao tưởng? Tưởng liền mất dấu  ngay. Rõ  ràng “tưởng tức không”, nghĩa là không có thực thể của nó, chỉ  đối  duyên mà tạm có thôi. 
- HÀNH, tứ niệm niệm thầm  kín bên  trong, cũng luôn luôn là có niệm một cái gì đó, không đối tượng  để niệm  thì niệm cũng bặt, làm sao bảo nó thật có được. 
- THỨC,  là  phân biệt, cũng luôn luôn có đối tượng để phân biệt. Có phân biệt là   phải có phân biệt cái gì. Không thể có cái phân biệt khơi khơi. Rời đối   tượng phân biệt, thức bám vào đâu để tồn tại? Hiểu thấu chỗ này thì   chúng ta thấy đầu mối tu hành dễ dàng. Anh ngồi thiền suy nghĩ thì cứ   suy nghĩ, nhưng hãy nghĩ xem! Làm sao suy nghĩ? Ngay đó tức nó lặng ngay   thôi. 
Xét tột năm uẩn như thế, thì cái ta bám vào chỗ nào? Tuy   nhiên, giờ đây hãy gạt ra những kiến thức hiểu biết lâu nay đi, rồi   chính ngay trong năm uẩn này chỉ ra xem: Cái gì là Ta? Xét cho thật kỹ,   không phải chỉ hiểu suông, mà chiếu soi thật sự bằng chính con mắt tâm   của chính mình! Ta, chỉ là một khái niệm chứ gì! Ai cũng cứ TƯỞNG CÓ MỘT CÁI MANG TÊN TA, nó ngự trị trong thân này, nó làm chủ cuộc sống nay. Do bám vào cái NGÃ TƯỞNG đó mà sanh ra cống cao, ngã mạn, giành giựt hơn thua … tạo thành trăm   ngàn, muôn thứ nghiệp, rồi chịu khổ luân hồi dài dài. Phật gọi đó là Tập   Nhân của khổ. Chừng nào cái Tập Nhân này còn, là còn khổ mãi, còn đi   trong sanh tử không dừng. Có một bà già đến hỏi Hòa Thượng Triệu Châu: 
- Con mang thân nữ bị năm dây ràng buộc gây chướng ngại cho Phật tánh, làm sao thoát ly được những triền phược ấy? 
Sư bảo: 
-   Bà hãy nguyện cho tất cả mọi người đều sanh lên cõi trời. Còn thân hèn   này nguyện tiếp tục chịu trầm luân một mình trong biển khổ. 
Đó là   cách thuyết pháp đặc biệt của Thiền Sư. Mới nghe qua, ai cũng lấy làm   lạ, nhưng chính đó là lời đáp vi diệu. Bởi người cứ chấp chặt vào cái Ta   này, mang thân nữ liền bám chặt vào tướng nữ, mang thân nam liền bám   chặt vào tướng nam, thân đui mù, què quặt vẫn bám chặt vào nó không thể   buông, do đó chịu khổ chứ gì! Giờ đây, phát nguyện như thế, tức là quên   mình, QUÊN CÁI TA NÀY, chỉ nghĩ đến người, biết có người thôi. Đã quên   ta, KHÔNG THẤY CÓ TA thì lấy cái gì để khổ? Khổ bám vào đâu? Ngay đó   liền hết khổ! Đó là cách đáp khéo léo mà xác đáng vô cùng! 
Hiểu như   vậy rồi, chúng ta hiểu thêm, từ chấp ta đó, kéo theo chấp cái của ta,   tức ngã sở, cũng không dễ gì buông, có lúc còn muốn đậm hơn nữa. Trong   nhà Thiền có câu chuyện: Có vị tướng quân đã chán việc chiến trường đến   Thiền Sư Đại Huệ xin xuất gia. Ông thưa với Sư: 
- Bạch thầy! Hiện tại con đã trừ sạch niệm hồng trần, xin thầy từ bi thu con xuất gia, cho con làm đệ tử của thầy. 
- Ông có gia đình, có tập khí ngoài đời nặng nề, ông chẳng thể xuất gia, hãy thong thả từ từ! 
Ông thưa: 
-   Bạch thầy, hiện tại cái gì con đều bỏ được cả, vợ con thê thiếp, gia   đình đều không thành vấn đề đối với con, xin thầy cho con xuất gia ngay.   
Sư vẫn bảo: 
- Hãy thong thả từ từ! 
Ông đành chờ. Một hôm, ông dậy rất sớm đến trong chánh điện lễ Phật. Ngài Đại Huệ thấy, bèn hỏi: 
- Tướng quân vì sao dậy sớm đến lễ Phật như thế? 
Ông bắt chước dùng thi kệ thiền ngữ để đáp: 
            Vì trừ lửa trong tâm, 
            Dậy sớm lễ Sư trưởng. 
Ngài Đại Huệ bèn cười, dùng kệ đáp lại: 
            Dậy sớm như thế ấy, 
            Chẳng sợ vợ ngủ người. 
Ông vừa nghe, liền nổi giận mắng: 
- Lão quái này, sao nói năng xúc phạm đến người quá vậy! 
Thiền Sư Đại Huệ liền cười ha hả, bảo: 
            Nhè nhẹ phẩy chiếc quạt, 
            Tánh lửa đã bừng lên. 
            Nóng nảy hừng như thế, 
            Sao bảo buông xuống xong? 
Đây   là cho thấy, bên ngoài bình thường chưa đụng cảnh, chúng ta cứ tưởng   mình đã sạch chấp, đã không còn dính mắc, nhưng trong âm thầm tình chấp   ngã, ngã sở vẫn còn ngủ ngầm đó, gặp cơ hội nó liền hiện lên. Do đó   trong nhà thiền thường nhắc nhở phải “hạnh giải tương ưng”, hiểu và hành   phải thật khế hợp, không thể chỉ hiểu suông cho là đủ. 
Chuyện   thứ hai, Hòa Thượng Kim Bích Phong sau khi tỏ ngộ, Sư buông hết mọi  tham  ái, chỉ thích một cái bát bằng ngọc chẳng rời tay. Mỗi lần trước  khi  ngồi thiền định, Sư đem cái bát cất kỹ gần bên mới an tâm. Có lần,  nhân  tuổi thọ Sư đã hết, vua Diêm La sai Quỷ đến bắt Sư. Song Sư cũng  biết  thời đã đến, mỉm cười ngồi nhập định, xem vua Diêm La làm gì. Quỷ  đến  bên cạnh Sư, đợi 1 ngày, 2 ngày … không thể bắt Sư, bèn đi hỏi ý  thổ  địa. Thổ địa bảo: 
- Thiền Sư Kim Bích Phong này rất thích cái bát ngọc, nếu ngưoi có cách đem cái bát ấy di, Ngài động niệm sẽ xuất định. 
Quỷ   nghe nói, liền nhanh đến chỗ đặt cái bát ấy làm lay động nó. Sư nghe   tiếng cái bát động, động niệm liền xuất định giữ lại! Quỷ thấy Sư xuất   định, liền vỗ tay cười to: 
- Hay đấy! Giờ đây xin mời Ngài theo tôi đến gặp vua Diêm La. 
Thiền   Sư Kim Bích Phong vừa nghe lời quỷ, biết rõ do tâm tham ái cái bát,  làm  mất đi huệ mạng ngàn năm của mình, liền đập vỡ cái bát ngọc, nhập  định  trở lại và để bài kệ: 
            Nhược nhân dục nã Kim Bích Phong, 
            Trừ phi thiết luyện tỏa hư không. 
            Hư không nhược năng tỏa đắc trụ, 
            Tái lai nã ngã Kim Bích Phong. 
Tạm dịch: 
            Nếu người muốn bắt Kim Bích Phong, 
            Trừ khi sắt luyện khóa hư không. 
            Nếu hay khóa được hư không ấy. 
            Trở lại bắt ta Kim Bích Phong. 
Đó   là vì có chút tình luyến ái vật sở hữu mà tâm bị động, tâm động liền  có  tướng hiện, tức bị quỷ thần xem thấy. May là Sư còn có sức định tỉnh   mạnh, nếu không đã bị quỷ dẫn đi mất rồi! Chỗ này CÓ THỂ DÙNG LÝ LUẬN ĐẾN ĐƯỢC SAO ? 
III. TINH THẦN VÔ NGÃ CỦA ĐẠO PHẬT 
Hiểu   qua điều lầm lẫn chấp ngã trên rồi, chúng ta lại phải thấu triệt tinh   thần vô ngã của Phật dạy. Bởi vì, người đi vào đạo Phật đều phải đi qua   cửa này. AI CHƯA ĐI QUA CỬA NÀY, đừng vội nói đến giải thoát làm gì cho nhọc miệng, cũng đừng vội vỗ ngực nói to!
1. Thế nào là vô ngã? 
Chúng   ta thường nghe nói vô ngã, vậy đó là vô cái ngã gì? Có cái ngã để vô   hay không? Đây là điều phải xét cho thật thấu đáo. Bởi, có Ta thì mới   vô, tức là không nó, phá nó; còn không có gì là Ta thì vô cái gì? Phá   cái gì? Phá ngã, thì phải có cái ngã vị phá. Cho nên, chúng ta phải   hiểu, đây là nhằm trừ cái ngã tưởng cho người, nghĩa là nó không thật   có, mà tưởng là có, vì vậy nói không, để trừ cái “tưởng” đó. Bởi nói là   “tưởng” tức nó không thật có, dùng trí tuệ thấy đúng lẽ thật thì sẽ hết   chấp, hết lầm. Nên nói trừ mà thật không có gì để trừ. Nếu thật có cái   ngã để trừ, thì trừ nó bỏ đi đâu? Không khéo lại sanh thêm cái NGÃ MỚi để   trừ cái ngã này, vẫn lẩn quẩn trong vòng ngã tưởng. Kinh Kim Cang đã   nói: “Nói ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Tức chẳng phải ngã, nhân,   chúng sanh, thọ giả, đó gọi là ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả”. Tức là   chớ lầm theo tiếng gọi, nghe nói tên “ngã” liền tưởng thật có cái ngã,   rồi sanh tâm trừ nó, đó là lọt vào lưới danh từ, ngôn ngữ. ĐEM NGÃ DẸP   NGÃ,vẫn chưa rời dấu vết tướng ngã. Đó là điều phải khéo thấy. 
 
2. Nói vô ngã để nhắc người tu hành trừ tham ái thân này. 
Đây   là trừ chấp thân. Bởi ái thân tức ái ngã, đó là nguồn luân hồi trong   sanh tủ. Vì ái thân, mến luyến nó quá, nên mất thân này tìm thân khác,   nghĩa là luôn luôn tìm cái để tựa. Chính vì bám chặt vào nó, nên khi mất   nó, liền khổ! Ai đụng tới nó liền sân, liền tự ái. TỰ ÁI LÀ GÌ? Tức là ĐỤNG TỚi CÁI TA NÀY chứ gì? Nếu không có ta, cái gì tự ái? Do đó xét kỹ, người nhiều tự ái,   tức là nặng về cái ta, phải không? Thấy thấu chỗ này, chúng ta mới  thấy  cái lầm sâu dày của mình. Người tu hành không giải thoát được,  không  hết khổ, cũng vì còn bám vào chỗ này. Buông chỗ này liền cảm nhận  niềm  vui giải thoát ngay hiện tại đây thôi. Chuyện ngài Phá Táo Đọa:  Sư không  biết tên gì, nhân vùng gần Tung Sơn có ngôi miếu thờ ông Táo  rất linh,  người đến giết vật cúng tế thường xuyên. Một hôm, có vị Thiền  Sư, sau  này gọi là Phá Táo Đọa, dẫn nhóm đệ tử đi vào trong miếu. Sư  đến chỗ thờ  ông Táo, lấy gậy gõ vào đó ba cái bảo: Bếp ơi! Đây là ngói  gạch hợp  thành, thánh từ đâu lại, linh từ đâu đến mà ngươi đòi chuộc  mạng nhiều  sinh vật như thế? 
Nói xong, Sư gõ nấy cái nữa thì cái  bếp ấy liền  ngã đổ. Sư bèn dẫn nhóm đệ tử đi ra. Thầy trò đi được một  quãng đường,  chợt có vị mặc đồ xanh như là quan đến lễ trước Sư, Sư  hỏi: 
- Ông là ai? 
Vị đó thưa: 
-  Con là thần Táo ở ngôi miếu  kia, vừa rồi con được Hòa Thượng khai thị  pháp vô sanh nên được giải  thoát kiếp táo, sanh về cõi trời, do đó con  đến tạ ơn Hòa Thượng. 
Sư bảo: 
- Vô sanh là tánh sẵn có của ngươi, chẳng phải nhờ ta thuyết pháp. 
Vị ấy bèn lạy rồi biến mất. Vị tăng thị giả thắc mắc hỏi: 
-   Chúng con theo hầu Hòa Thượng nhưng chưa hề được nghe Hòa Thượng giảng   pháp, ông thần Táo này được nghe pháp gì mà chóng sanh lên cõi trời  như  vậy? 
Sư bảo: 
- Ta chỉ nói với y là: “DO NGÓI GẠCH HỢP THÀNH, LINH TỪ ĐÂU LẠi, THÁNH TỪ ĐÂU ĐẾN” vậy thôi chứ không có đạo lý gì khác. 
Như   vậy đâu là pháp vô sanh mà ông thần Táo ngộ nhanh thế? Bởi Thần Táo   không chỗ tựa nương, vọng bám vào mấy cục gạch của cái bếp trong miếu,   lấy đó làm thân mình, rồi đòi người giết sinh vật cúng tế, lại càng tạo   nghiệp dữ thêm, nên không đi đâu nổi. Bị mấy cục gạch đó nó cột một  cách  đáng thương! Chúng ta hiện tại cũng giống như vậy, cứ bám vào mấy  cục  thịt, mấy đốt xương, mấy sợi gân … đấy mà giết vật này, giết vật  kia  cúng nó, rốt cuộc nó cũng tan rã, trở về với cát bụi, còn nghiệp dữ  kia  tự mình phải đành mang lấy sang kiếp khác để chịu khổ, có đau đớn  chăng?  Lo nuôi nó, nhưng nó vẫn bỏ mình, để mình riêng chịu khổ, vậy  còn chưa  tỉnh hay sao: Do đó ông thần Táo kia, khi được Thiền Sư đánh  thức: “CÁI  NÀY LÀ DO NGÓI GẠCH HỢP THÀNH THÔI, CÁI LINH TRI, CÁI  THÁNH SÁNG SUỐT  HÁ LÀ VẬT VÔ TRI ĐÓ SAO, MÀ PHẢi ĐÒI NGƯỜi TA CÚNG TẾ  BẰNG BAO NHIÊU  MẠNG SỐNG CỦA NHỮNG SINH VẬT ĐÁNG THƯƠNG KIA!” Nghe  vậy, thần  Táo liền tỉnh ngộ, mình là thần, tức sáng suốt, đâu phải mấy  cục gạch  đó, liền buông mấy cục gạch này, ngay đó tức giải thoát kiếp  táo chứ gì!  Buông chỗ nương này, liền ngộ tự tánh xưa nay chưa từng  sanh diệt, chưa  từng thiếu vắng, đó là pháp vô sanh chớ có gì khác nữa  đâu! Cho nên,  nếu cứ bám chặt vào cái ngã mập ốm, mấy chục ký lô này,  là đi mãi trong  luân hồi, tạo nghiệp chịu khổ đời đời không dứt. NGƯỜi TU GIẢi THOÁT CHỚ CÓ LẦM LẪN! 
 
3. Vì trừ thành kiến chấp trước. 
Đây là phá chấp tâm. Nghĩa là lâu nay chúng ta sống với những cái “THẤY BIẾT” MANG ĐẬM MỘT CÁI TA chen   vào trong đó; bởi vậy hễ thấy biết gì là chấp chặt vào điều thấy biết   đó, không chịu buông, dù là thấy biết sai lầm cũng cố bảo vệ nó tới   cùng. Vì sao vậy? Vì sợ mất cái Ta! Song chân lý vốn không có riêng tư,   không có ranh giới; nhưng khi bị cái Ta chen vào, nó liền chia chẻ chân   lý thành mảnh mún, biến lẽ thật thành ra có đây kia, có lẽ thật của  ta,  có lẽ thật của anh, tạo thành sự cách biệt nhau. Chẳng hạn, tôi  thấy  ngọn núi nầy cao, người kia thấy là thấp, bởi vì trong đầu tôi ít  thấy  ngọn núi nào cao hơn ngọn núi này; trái lại, trong đầu người kia  đã từng  thấy nhiều ngọn núi cao hơn ngọn núi này xa. Song, núi vẫn là  núi, nó  không tự nói là cao, không tự nói là thấp. Rõ ràng là chúng ta  lấy cái  ta mà đo lường tất cả người, bắt người phải thấy theo ta. Có  câu chuyện  ngụ ý: Một tên tướng cướp có một cái giường đặc biệt, hễ bắt  được ai, y  đem đặt lên giường đó, nếu dài hơn thì lấy dao chặt bớt,  nếu ngắn hơn  thì cố kéo rút cho dài ra bằng cái giường này. 
Đây là  ngầm chỉ,  người chỉ lấy cái Ta mà đo kẻ khác theo cái khuôn của mình,  bắt kẻ khác  phải theo cái Ta này, chính vì vậy mà luôn làm đau khổ cho  nhau; vì mỗi  người đều có nghiệp riêng đâu giống ta được. Hiểu rõ bằng  trí tuệ chân  thật, Ta chỉ là một khái niệm tưởng tượng; thấy biết do  huân tập sai  khác mà thành có hiểu sai khác, thì thông cảm cho nhau để  tìm về chỗ  chân thật không hai, đó mới là điều quý. Trong kinh Niết Bàn  có kể câu  chuyện: Một ông vua muốn thử những người mù, ông sai đem con  voi đặt  trước sân, gọi mấy người mù rờ xem rồi tả lại cho ông nghe  hình dáng con  voi thế nào? Người rờ trúng tai voi bảo: Con voi giống  cái quạt. Người  rờ trúng chân voi, bảo: Con voi giống cây cột. Người rờ  trúng bụng bảo:  Con voi giống cái lu. Người rờ trúng đuôi voi, bảo:  Con voi giống cây  chổi. Rồi cãi nhau mãi, ông vua chỉ cười thôi. 
Như  vậy, vì sao mà họ  tranh cãi? Chỉ vì chỗ thấy chưa trọn vẹn, dù mỗi  người có chạm đến con  voi thật sự, nhưng chỉ chạm một bộ phận, một góc  cạnh, nên chỗ biết cũng  hạn hẹp và có sai biệt, do đó thành tranh cãi  nhau. Trong khi đó, nếu  là ông vua thấy toàn thể con voi rõ ràng trước  mắt thì sao? CHỈ CƯỜi THÔI!  Nếu như ông vua cũng nhảy vào tranh  cãi với những người mù ấy thì thế  nào? Cũng mù theo luôn phải không?  Bởi còn ham cãi là còn tâm hơn thua,  còn mang nặng tình chấp ngã, sợ ta  sai, ta kém! Trái lại, đã thấy suốt  rồi, đâu còn sợ sai mà cãi? Như  chuyện Hiệp Sơn và Định Sơn. Hai vị cùng  đi đường bàn chuyện với nhau,  Định Sơn nói: 
- Trong sanh tử, không Phật tức phi sanh tử. 
Hiệp Sơn nói: 
- Trong sanh tử, có Phật tức chẳng mê sanh tử. 
Hai người lên núi Đại Mai lễ Thiền Sư Pháp Thường, Hiệp Sơn đem câu nói của hai người thuật lại cho Sư nghe và hỏi: 
- Chưa biết chỗ thấy của hai người, ai được gần? 
Sư bảo: 
- Một gần một xa. 
- Ai được gần? 
- Hãy đi, sáng mai trở lại! 
Sáng hôm sau, Hiệp Sơn lại đến hỏi Sư. Sư bảo: 
- Người gần thì chẳng hỏi, người hỏi thì chẳng gần. 
Thấy   đau chưa? Bởi cứ lo tới trước hỏi ai đúng. Là muốn mình hơn, sợ mình   sai, cho nên không gần được đạo. Trái lại, người đạt lý rõ ràng không   nghi thì nói ra tự tin chắc, lo gì phải hấp tấp đi hỏi đúng sai? Còn KẸT TRONG NIỆM ĐÚNG SAI như thế, quả tang là người CÒN ĐỨNG NGOÀI cửa rồi! Đây là một kinh nghiệm cho người còn ưa tranh cãi lý luận, còn nặng về tình đúng sai, cần nghiệm kỹ! 
4. Vì trừ ngã mạn, kiêu căng, cống cao, ngạo nghễ. 
Bởi   xét tột lý: Cái gì là ngã mạn? Cái gì kiêu căng? Kiêu căng cho ai? Cho   cái cục thịt 60, 70 ký lô này chăng? Cho cái khối mập ốm, đen trắng  này  ư? Nếu vậy, khi chết nó nằm cứng đơ hoặc bệnh nằm liệt giường thì  còn gì  để kiêu căng, ngã mạn? Do đó, học đạo mà mang nặng tâm này thì  làm sao  học đến chỗ chân thật? Chính vì vậy, mà trong nhà Thiền thường  đánh phá,  thử thách cho nó xẹp bớt, nhẹ bớt, mới dễ tiếp nhận lẽ thật.  Lâm Tế ba  lần hỏi đại ý Phật pháp, ba lần bị Hoàng Bá đánh, nếu lúc đó  tự ái, nổi  giận oán hờn thì có làm Tổ được chăng? 
Huệ Nam ở Hoàng  Long, lúc làm  thơ ký từng lãnh đồ chúng, có tiếng tăm, khi đến trong  Pháp hội Ngài Từ  Minh, vào thất thưa hỏi chỉ bị Từ Minh mắng chửi. Sư  hổ thẹn nhìn những  người bên cạnh nói: 
- Chính vì chưa hiểu mới cầu quyết nghi, mắng đâu phải quy củ từ bi thí pháp! 
Từ Minh cười bảo: 
- Đó là mắng chửi sao? 
Ngay câu này, Sư liền đại ngộ. 
Vậy   mắng chửi đó là mắng chửi cái gì? Đó là đập vào cái ta hiểu biết này,   cái ta kiến giải này, cho nó hết chỗ nổi phồng lên, rồi khêu nhẹ mới   liền sáng tỏ! 
Lục Tổ mới đến Ngũ Tổ, Ngũ Tổ hỏi: 
- Ngươi là người từ xứ nào đến? Đến đây lễ ta để cầu việc gì? 
Sư đáp: 
- Đệ tử từ Lãnh Nam đến lễ bái Hòa thượng chỉ cầu làm Phật, không cầu gì khác. 
Ngũ Tổ bảo: 
- Ông là người Lãnh Nam, là xứ mọi rợ, làm sao kham làm Phật? 
Nếu   Lục Tổ ngay đó tự ái bỏ ra về thì có làm Tổ được chăng? Hoặc chúng ta   đang ngồi thiền yên lặng tâm thanh tịnh, chợt nhớ đến “hồi sáng anh ấy   nói nặng ta!”, thì sao? Tức liền mê ngay! Đây là một lẽ thật sáng ngời,   cần thấu rõ không thể hời hợt bỏ qua! 
5. Nhằm đưa người vươn lên, chuyển hóa. 
Chính   tinh thần vô ngã giúp chúng ta thấy rõ, chúng sanh không có cái ngã   chúng sanh cố định, Phật cũng không có cái ngã Phật cố định, phiền não   sanh tử cũng không có cái ngã phiền não chúng sanh cố định, Bồ Đề Niết   Bàn cũng không có cái ngã Bồ Đề Niết Bàn cố định. Do đó mới có chuyển   hóa chúng sanh thành Phật, chuyển phiền não thành Bồ Đề; nếu chúng sanh   đã cố định rồi, Phật đã cố định rồi thì còn mong gì chuyển thành Phật   được! Tiệm Nguyên với Ngài Đạo Ngô đến nhà Đàn Việt điếu tang, Tiệm   Nguyên liền vỗ vào quan tài nói: 
- Sanh ư? Tử ư? 
Đạo Ngô bảo: 
- Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói. 
Tiệm Nguyên hỏi: 
- Vì sao chẳng nói? 
Đạo Ngô bảo: 
- Chẳng nói, chẳng nói. 
Hai thầy trò về giữa đường, Tiệm Nguyên hướng về Đạo Ngô nói: 
- Thầy hãy vì con nói, nếu không nói con đánh thầy. 
Đạo Ngô bảo: 
- Đánh thì cứ đánh, còn nói thì không nói. 
Tiệm Nguyên liền đánh. 
Đạo Ngô bảo: 
- Ông hãy tìm nơi khác, nếu Tri Sự biết được e khó cho ông. 
Tiệm   Nguyên bèn bỏ đi, đến ngôi chùa nhỏ dưới núi, một hôm nghe người tụng   Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa đến đoạn: “Nên dùng thân tỳ kheo được   độ, liền hiện thân tỳ kheo mà vì nói pháp…” Sư liền tỏ ngộ. 
Tiệm   Nguyên thắc mắc hỏi: Sanh ư! Tử ư? Nếu thật cố định là sanh, là tử, sao   Đạo Ngô không nói xác định đi? Bảo “Chẳng nói, chẳng nói” là có đáp   chưa? Nếu Tiệm Nguyên nhanh mắt, ngay đó liền rõ sanh tử không thể nói,   ngay sanh tức vô sanh thì hay biết mấy, đâu phải nhọc nhằn đến nơi  khác!  Khi nghe đến Phẩm Phổ Môn liền ngộ, là ngộ cái gì? Bồ Tát Quán  Thế Âm  có 32 ứng thân, vậy thân nào là thân thật của Bồ Tát? Thân đó  hiện, thân  đó mất, Ngài có thật mất chăng? Vậy có gì là cố định thật? 
Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã có đoạn Phật dạy: “TẤT CẢ CHÚNG SANH XƯA NAY THANH TỊNH. GIẢ SỬ KHIẾN CHO CHƯ PHẬT Ở TRĂM NGÀN MUÔN KIẾP XƯỚNG NÓI: “CHÚNG SANH CHÚNG SANH”, MÀ KHÔNG QUYẾT ĐỊNH THẬT CÓ CHÚNG SANH CÓ THỂ ĐƯỢC!”   Cho thấy, dù Phật có nói tên chúng sanh, nhưng không phải do nói đến   tên đó mà thành chúng sanh thật. Nên nói: “Mê là chúng sanh, giác tức   Phật”, cả hai đều là tên, thể đó vốn không hai, không phải có một cái   thể Phật riêng. Vậy nói chúng sanh nhưng đâu phải là chúng sanh mãi! Mê   đâu phải mê mãi! Mê vĩnh viễn! Nếu thế thì hết tu hành, vì dù có tu  cũng  không đổi được. Sự thật, nếu người khéo quán chiếu trở lại nguồn  tâm,  mở sáng mắt trí tuệ thì hết mê. Hết mê tức là giác. Đã giác thì  hết tên  chúng sanh, mà chuyển thành tên Thánh, tên Phật! Đó là một con  đường  vươn lên, một sức mạnh để tu hành chuyển hóa: Trừ tâm niệm mặc  cảm mình  làm chúng sanh ngu si mãi! Mình nghiệp chướng sâu dày hết còn  mong gì tu  hành nữa! Đây là ý niệm nguy hiểm, khiến người thoái hóa,  chôn vùi mình  mãi mãi trong tội lỗi. Vì vậy, vô ngã là một diệu lý sâu  xa, không dễ  gì LÝ LUẬN QUA LOA mà hiểu hết, chỉ phải THỰC SỰ SỐNG TRONG ĐÓ mới tự cảm nhận không thể nghĩ bàn. Nếu chỉ hiểu vô ngã là không có ta   thật, có gì dính dáng? Cho nên vô ngã, cuối cùng đưa đến vô sở đắc,  sạch  hết mọi chỗ được, mọi kiến giải đã có. 
Thiền sư Linh Huấn ở với Ngài Quy Tông một thời gian, khi từ giã đi, Quy Tông hỏi: 
- Ông đi đâu? 
Sư thưa: 
- Con về Lãnh Trung. 
Quy Tông bảo: 
- Ông ở đây nhiều năm, sửa sang hành lý xong hãy đến đây, ta sẽ nói cho một câu Phật pháp cao tột. 
Sửa sang hành lý xong, Sư đến trước Quy Tông, Quy Tông bảo: 
- Lại gần đây! 
Sư đến gần, Quy Tông bảo: 
- Trời lạnh, đi đường hãy bảo trọng! 
Sư nghe lời này, liền quên chỗ hiểu trước. 
Vậy   Phật pháp cao tột ở chỗ nào? Chúng ta nghe nói Phật pháp cao tột, liền   tưởng là một câu gì đó khác thường, một đạo lý thật cao siêu, không  ngờ  chỉ một câu nói bình thường, giản dị, tâm mong muốn để hiểu liền  dứt!  Nên nói: “QUÊN CHỖ HIỂU TRƯỚC”. Đây là chỗ người học thiền chân thật không thể hời hợt bỏ qua! Còn thấy TA NGỘ, TA ĐƯỢC là còn phải xét lại!
IV. CUỐI CÙNG CÓ TA HAY KHÔNG? 
Nói   không ngã, sạch hết mọi chỗ chấp, chỗ bám, chỗ đắc, vậy cuối cùng thế   nào? Không còn gì hết sao? Đây là chỗ nhiều người học đạo thắc mắc,  nghi  ngờ.
Như trước đã nói, không ngã là không cái NGà TƯỞNG,   không cái giả ngã, tức lầm cái giả cho là thật, không phải ta mà nhận   bướng cho là ta, để thành tạo nghiệp chịu khổ. Song người đạt vô ngã,   thì trong đó “CÁI GÌ BIẾT RÕ VÔ NGÔ mà chỉ dạy lại cho  mọi  người còn mê? Nếu hoàn toàn không có cái thật, vậy gọi lầm là lầm  cái  gì? Không phải thật ta mà lầm cho là thật ta, mới gọi là lầm! Do đó,   khi mọi Ý NIỆM SAI LẦM về Ta đã sạch thì chân ngã hiện bày! Cho nên, phá là PHÁ CÁI Ý NIỆM, cái tưởng về ta, chứ không phải có cái ta thật bị phá. Nếu thấy thật có cái ta bị phá, thành ra có CÁI TA THỨ HAI để phá nó rồi! Rốt cuộc vẫn lẩn quẩn chưa rời bóng dáng cái Ta. 
Có vị tăng hỏi Thiền Sư Bổn Tịch ở Tào Sơn: 
- Thế nào là kiếm không mũi? 
Sư đáp: 
- Chẳng do rèn luyện mà thành. 
- Dụng của nó thế nào? 
- Người gặp đều chết. 
- Người chẳng gặp thì sao? 
- Cũng phải rơi đầu. 
- Người gặp đều chết là lẽ cố nhiên, người chẳng gặp vì sao lại rơi đầu? 
- Ông chẳng thấy nói “hay sạch tất cả” sao? 
- Sau khi sạch hết thì thế nào? 
- Mới biết có cây kiếm này. 
Thường   thì kiếm phải có cán, có mũi, đây hỏi kiếm không mũi là sao? Muốn chỉ   cái gì? Tức không phải hỏi cây kiếm của thế gian rồi, mà muốn chỉ kiếm   vô tướng nơi mình. Kiếm đó, đâu phải do tạo tác mà thành, vì có tạo tác   là thuộc sanh diệt rồi. Nên Sư đáp: “CHẲNG DO RÈN LUYỆN MÀ THÀNH”.   Tuy nó không tướng, không do tạo tác thành, nhưng dụng của nó thì ghê   hồn, không thể nghĩ bàn, không một bóng dáng gì còn lại với nó được.  Nên  “GẶP, CHẲNG GẶP” đều chết, nghĩa là dứt bặt cả hai bên đối đãi,  không  chỗ cho tình thức hiểu biết, phân biệt đến được. Khi sạch hết mọi  tình  chấp phân biệt rồi, không phải không còn gì hết, mà ngay đó liền  rõ có  cây kiếm này! Tức là sạch hết tình chấp phân biệt hai bên có mang  cái  ngã trong đó, thì chân thật hiện tiền sờ sờ ngay đó, thật tướng  Bát Nhã  lồ lộ rõ ràng. Nhưng vì phải vượt qua ý niệm đối đãi mới cảm  nhận được,  nên các Ngài không thể nói cho người còn đem tình phân biệt  để hiểu! Do  đó hỏi đến chỗ này, các Ngài thường im lặng, hoặc hét,  khiến người hết  tưởng tượng. Song cái này ở đâu mà khó nói như vậy? Sự  thật không ở đâu  cả, mà ở ngay chính mình, trong chỗ chúng ta sống hằng  ngày đây thôi,  chỉ tự chúng ta chẳng chịu nhận mà đành lang thang tìm  kiếm! 
Trong Huyết Mạch Luận, Tổ sư đã dạy rõ ràng: “Ở  TRONG ÁNH  SÁNG NÀY, GIƠ TAY MÚA CHÂN NHƯ SỐ CÁT SÔNG HẰNG, ĐẾN KHI HỎi  TỚi THÌ AI  NẤY THẢY NÓI CHẲNG ĐƯỢC, GIỐNG HỆT NGƯỜi GỖ. HOÀN TOÀN LÀ  CHÍNH MÌNH  THỌ DỤNG, NHÂN ĐÂU CHẲNG BIẾT?” 
Chính ngay chỗ  chúng ta giơ tay  múa chân, đi qua, đi lại hằng ngày đây, nếu không có  ánh sáng kia thì  cái gì khiến ra như thế? Ai chen vào đây để làm những  việc đó? Không ai  chen vào hết, thì chính mình thọ dụng tất cả đó, tại  sao hỏi đến lại  mờ mịt không biết? Giả sử là người bị tâm thần, mất sáng  suốt thì không  biết cũng được đi, trái lại chúng ta vẫn đang sáng suốt  rõ ràng đây,  sao hỏi đến lại không biết? Có đau chăng? Chính đó Phật, Tổ  gọi chúng  ta là mê, là tự cô phụ chính mình là chỗ này! 
Trần Thái Tông trong Khóa Hư Lục có bài kệ tóm kết về bài NÓI RỘNG SẮC THÂN là: 
        Vô vị chân nhân xích nhục đoàn 
        Hồng hồng bạch bạch mạc tương man. 
        Thùy tri vân quyện trường không tịnh 
        Thúy lộ thiên biên nhất dạng san. 
Tạm dịch: 
        Vô vị chân nhân thịt đỏ au, 
        Hồng hồng, trắng trắng chớ lầm nhau. 
        Ai biết, mây tan trời trong vắt, 
        Ven trời sương biếc núi một màu. 
Tức   ngay nơi sắc thân này, ngay cái thân máu thịt đỏ au này, có con người   chân thật không địa vị, ngôi thứ, ngồi sẵn trong đó. Tại sao chúng ta   không sống với con người chân thật đó, mà nhận cái ta vô thường sanh   diệt này để chịu khổ? Tuy nhiên, cũng chớ vội vàng hấp tấp nhận lầm cái   tướng hồng hồng, trắng trắng của da thịt kia cho là “CON NGƯỜI CHÂN   THẬT” thì nguy! Cái tướng trắng trắng, hồng hồng của mấy cục thịt đó   không lâu cũng thúi sình, trả về cát bụi thôi. Nếu khéo tu hành quán   chiếu, mây mờ vô minh tan hết, thìcả một trời tâm trong vắt vô tận,   trước mắt hiện bày một thể như như, còn gì che đậy được nữa? TƯỚNG HỒNG HỒNG, TRẮNG TRẮNG KIA LÀM SAO NHỐT ĐƯỢC, NGĂN ĐƯỢC THỂ THÊNH THANG NÀY? 
 
V. TÓM KẾT 
Tóm   lại TA LÀ GÌ? Ta chỉ là một khái niệm, là cái tưởng tượng thôi, vốn   không có thật thể, nên chỉ gọi là ngã tưởng. Do đó, người tu hành chân   chánh mà còn mang nặng tình chấp ngã thì khó tiến đạo! Quên ngã thì   không cầu tiến, vẫn tiến! Khi chúng ta hết làm thì mắt sáng ngời, rõ ra   xưa nay chưa từng thiếu vắng bao giờ, còn phải chạy tìm ở đâu? 
Có vị tăng hỏi thiền sư Duy Khoan: 
- Đạo ở đâu? 
Sư đáp: 
- Ở ngay trước mắt. 
Vị ấy hỏi thêm: 
- Sao con không thấy? 
Sư bảo: 
- Vì ông có ngã. 
Tăng hỏi lại: 
- Con có ngã nên con không thấy, vậy Hòa thượng thì sao? 
Sư bảo: 
- Có ông, có ta rồi cũng chẳng thấy. 
Tăng hỏi tiếp: 
- Không con, không Hòa thượng thì sao? 
Sư đáp: 
- Không ông, không ta còn ai cầu thấy! 
Rõ   ràng đạo ngay đây thôi, chỉ quên cái tình chấp ngã này, bặt cái niệm  ta  người thì hiện tiền sáng rỡ chưa từng mất đi đâu! Còn muốn cầu thấy,   chính là chưa thấy. Nhất là còn cố ôm cái ta này mãi, mà muốn thấy  đạo,  hoặc cho là mình thấy đạo, hẳn còn xa lắm! 
Có kệ: 
        Ta có, phiền não có. 
        Ta không, phiền não không. 
        Có không hai đều dứt. 
        Chánh định mặc thong dong. 
Người tu hành tiến hay không, hãy xem kỹ lại điểm này! Và đây kết thúc bằng đoạn nhân duyên này: 
Tam   Tạng Đại Nhĩ từ Thiên Trúc đến Trung Hoa, tự nói đã được tha tâm  thông.  Vua Đường mời Quốc sư Huệ Trung thử xem thật giả. Quốc sư hỏi  Tam Tạng:  
- Nghe nói ông được tha tâm thông phải chăng? 
Tam Tạng thưa: 
- Chẳng dám. 
Quốc sư liền khởi ý đến bến đò Tây Xuyên, hỏi Tam Tạng: 
- Ông hãy nói xem, hiện giờ lão tăng đang ở đâu? 
Tam Tạng đáp: 
- Hòa thượng là thầy một nước, sao lại đến bến đò Tây Xuyên xem đò đua? 
Sư lại khởi ý đến cầu Thiên Tân, hỏi Tam Tạng: 
- Ông hãy nói xem, hiện giờ lão tăng ở đâu? 
Tam Tạng đáp: 
- Hòa Thượng là thầy một nước, sao lại đến cầu Thiên Tân xem khỉ giỡn? 
Sư liền hỏi Tam Tạng: 
- Ông hãy nói, hiện giờ lão tăng ở đâu? 
Tam Tạng lặng thinh không biết chỗ đi. Sư nạt: 
- Cáo tinh! Tha tâm thông ở chỗ nào? 
Tại   sao hai lần trước, Tam Tạng thấy được, đáp trúng? Đến lần thứ ba, vì   sao Tam Tạng mờ mịt không biết? Ngay lúc đó Quốc sư ở đâu? Có phải ĐANG ĐỐI DIỆN HIỆN TIỀN, mà Tam Tạng lại lầm qua, đành bị quở! Bởi Tam Tạng chỉ lo ĐUỔI THEO CÁI BÓNG của Quốc sư, đến khi Quốc sư đối trước lại mê! Mọi người cần thấy CHỖ TAM TẠNG KHÔNG THỂ THẤY QUỐC SƯ đó, liền rõ “TA LÀ GÌ?”
Các bài mới
- Thiền tông đốn ngộ - 16/11/2015
- Tâm yếu nhà Thiền - 16/11/2015
- Niệm về cái chết - 15/11/2015
- Sống tỉnh giác - 15/10/2015
- Tam nhân Phật tánh - 23/09/2015
Các bài đã đăng
- Tâm Kinh Bát Nhã qua cái nhìn của nhà thiền - 23/09/2015
- Giải trừ bản ngã - 23/06/2015
- Ta thì chẳng phải là ta - 22/06/2015
- Chẳng lầm nhân quả - 18/06/2015
- Thấy pháp - 06/05/2015
Pháp Thoại
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 36903
- Online: 57
 
                
 
                              
                              
                              
                              
                              
                              
                              
                              
                              
                              
             
             
             
             
            