Quan Âm Thị Kính
07/11/2025 | Lượt xem: 13
Tác giả: Vô Danh
Thiều Chửu giải thích truyện
Huyền Nhạn Linh Sơn biên soạn
Tôi khi 16 tuổi, có dịp viếng chùa Phước Hậu ở Trà Ôn, Tỉnh Vĩnh Long. Tôi được gặp 1 vị thầy có Pháp danh là Thích Tịnh Thuận cho tôi mượn quyển sách: “Quan Âm Thị Kính” diễn ca của tác giả Vô Danh. Tôi đọc sách ấy và nhớ 1 đoạn văn:
“Trăm năm là áng cỏ xanh rì rì
Sao bằng vui thú liên trì,
Dứt không Tứ Tướng, sá gì Nhị Biên,
Đạo này huyền thực là huyền,
Hư không mà vẫn đạm nhiên thế này,
Tiểu đà mến đạo tới đây,
“Kỉnh TÂM” tên đặt từ nay gọi thường”
Tôi lúc bấy giờ rất thích mấy câu thơ này.
Cuộc đời đưa đẩy tôi tới 20 tuổi thì được xuất gia học Đạo. Tôi học trên núi với Hoà Thượng Thanh Từ (HT 49 tuổi). Hoà thượng có mở 1 tu viện Thiền Tông lấy tên là Chơn Không. Tu viện này có được 10 huynh đệ theo học. Và từ đó tôi trở thành 1 Thiền sinh của tu viện này.
(Đây là thời chiến tranh Việt - Mỹ 1972).
TỚI TU VIỆN CHƠN KHÔNG
* * *
Tu viện Chơn Không, được Phật tử nhạc sĩ Từ Âm phổ thành bản nhạc như sau:
“Đường về Chơn Không ai ngóng ai trông. Mà chừng như đây sỏi đá rêu phong. Chập chùng non cao mây trắng quanh năm. Vọng từ thiên thu những tiếng gọi thầm.
Đường về Chơn Không xa lắc xa lơ. Tựa hồ chân ai in vết năm xưa. Thạch đầu quanh co lên dốc mây đưa. Một lần ra đi đâu nghĩ ngày về.
Người về Chơn Không nghe bước nao nao. Nhìn đàn con thơ chân thấp chân cao. Thầy dìu con qua trăm dốc lao đao. Tuổi già như sương đâu biết gian lao.
Đường về Chơn Không không khói không hương. Thiền đường im hơi không trống không chuông. Tượng thờ đơn sơ không phết không sơn. Người vào Chơn Không mưa nắng hãy còn.”

Tu viện Chơn Không như qua hình chụp là một ngôi nhà Việt Nam có ba gian và hai chái. Có thêm mái hiên phía trước và mé hiên phía sau, có hành lang xung quanh. Tu viện Chơn Không đặc biệt là không có một chữ Nho nào chỉ có hai chữ Việt Nam là “Nhà Thiền” dựng trước mặt tiền. Nóc mái được lợp bằng tole xi măng màu đỏ. Cột và vách tường được xây bằng đá chẻ, không tô, không sơn, không màu mè, và cũng không có trang trí. Chỉ là một vách tường có màu đá núi mà thôi. Và bên trong nền lót gạch bông, bàn thờ được xây bằng đá nhỏ gọn và tôn thờ một vị Phật Thích Ca Mâu Ni chiều cao khoảng 1 thước 2, chỉ sơn màu da người, không có màu gì khác. Và trong nền ngoài bàn tụng kinh có chuông mõ, ngoài ra không có gì khác hơn, sau lưng Đức Phật có một vách ngăn có cửa ra vào hai bên khoảng 8 tấc. Vách sau được tôn trí một tủ kinh tạng chữ Nho và trên đầu tủ dựng tượng Bồ Đề Đạt Ma cao 1 thước 2 x 2 thước 4. Đó là hình ảnh Tổ Bồ Đề Đạt Ma đứng trên nhành trúc. Và phía bên phải từ ngoài cửa sau đi vào được kê một cái giường dành cho Thượng toạ Viện chủ ngơi nghỉ. Trước tủ kinh lại được kê một cái tợ dành riêng cho Thượng toạ Viện chủ tiếp đệ tử và viết lách. Ngôi nhà Thiền chỉ đơn sơ là như vậy. Ngoài ra không có một chữ Nho, chữ Việt nào trên vách tường dù bên trong hay bên ngoài. Riêng trước hàng ba có đặt một ghế mây dành riêng cho Thượng toạ Viện chủ ngồi ngắm biển ngắm trời. Mặt nhà Thiền quay về hướng biển Thái Bình Dương và nhìn qua núi nhỏ có ngọn đèn pha dành riêng cho người đi biển cập vào bến Vũng Tàu.
Nhìn ra biển cả như nhìn vào dòng tâm thức luôn luôn có sóng mòi nhấp nhô. Tâm thức chuyển động như tâm hồn của chúng sinh còn đang mê đắm trong biển Ngũ Dục. Ôi! Tội nghiệp chúng sinh còn đang chìm ngập trong biển sinh tử!
Phía sau nhà Thiền là vách núi. Trên đỉnh núi có đài radar xoè ra hai cái dĩa to lớn để truyền tin từ Việt Nam qua tận nước Mỹ.
Thế nhà Thiền Chơn Không đơn sơ nhưng không kém phần uy nghiêm như Thiền sư Viện chủ của nó. Là Thiền sư Thích Thanh Từ. Một Thiền sư của hậu bán thế kỷ XX.
Tu viện Chơn Không được bao quanh bởi vòng rào dây kẽm gai. Đường vào tu viện chỉ có một đường. Cổng được xây đá, cũng xây một cách đơn sơ để gắn hai cánh cửa tùng hầu chắn lối không cho Thiền sinh xuống núi. Và nơi cổng phía phải gắn một đường dây chuông theo dây chuông Lan và Điệp. Khách đến muốn vào phải giật sợi dây chuông này để phát ra tiếng chuông sẽ có Tri khách mở cửa cho vào. Khách vào viếng chùa lễ Phật và được han hỏi gì đó trong vòng 15 phút mà thôi. Muốn ở lại nghỉ phải được sự cho phép của Thượng toạ Viện chủ, được ở tối đa bảy ngày để tu học. Về ăn ở được miễn phí tất cả. Riêng khách đến muốn xin được Quy y, nghe pháp Thượng toạ Viện chủ rất hoan hỷ và sẵn sàng làm lễ Quy y, nói pháp cho. Dù là một người cũng vẫn được Thượng toạ vui lòng mà cử hành nghi thức cho. Tuy nhiên trong thời gian nghỉ lại phải chấp hành theo thời khoá chuông bảng của tu viện.
Thời buổi đầu của tu viện không có điện, ban đêm phải thắp đèn dầu và sống bằng đèn trời. Còn nước thì phải xài hạn chế vì nguồn nước chính là nước mưa được chứa trong những hồ nước, nên rất giới hạn. Tu viện Chơn Không là một tu viện Thiền Tông xem như là đầu tiên của Việt Nam ngày ấy. Thế nên khách thập phương còn ít biết và tới lui cũng rất là giới hạn. Thượng toạ Viện chủ vì thế không bảo đảm được cho đời sống của Thiền sinh. Nên sống nơi đây có cơm áo ngày nào thì sống đến ngày nấy. Thượng toạ cho biết rằng nếu khi nào hết cơm, hết gạo thì mỗi người phải trở về gia đình hay chùa xưa mà khuyến hoá. Khi nào có đủ điều kiện thì trở lại tiếp tục tu học nữa, chứ quyết không có đi tụng đám tụng xám để có điều kiện mà sống. Thượng toạ có một chủ trương gan dạ như vậy, nhưng chưa có khi nào xảy ra tình trạng ấy. Đó cũng là do sức gia trì của Tam Bảo mà có được. Thượng toạ Viện chủ đặc biệt rất tin tưởng ba ngôi Tam Bảo không bao giờ bỏ quên người có lòng tu theo Phật.
Thế nên dầu điều kiện sống cũng khá bấp bênh tuy nhiên thầy trò vẫn vui sống trong êm đềm với không khí tu học nhịp nhàng với vũ trụ.
Về chương trình tu học Thượng toạ Viện chủ đã sắp xếp một chương trình tu học cho thời gian ba năm. Mỗi tháng chỉ học một tuần và còn bao nhiêu ngày khác chỉ dùng để tu mà thôi.

Thiền Sư Thích Thanh Từ
Viện Chủ Tu Viện Chơn Không
(Năm 1972)
Chương trình tu học được Thượng toạ Viện chủ sắp đặt chương trình học Thiền là chính (Thiền Tông) và kinh điển Đại Thừa là chuẩn mực chuyên học suốt thời gian ba năm. Trong việc giảng dạy về đạo Thiền và kinh điển chỉ có một mình Thượng toạ Viện chủ đảm đương nên cũng thật khá vất vả cho Thượng toạ. Ngài vừa giảng dạy vừa dịch thuật vừa viết lách để soạn bài, v.v…. Công việc của Thượng toạ Viện chủ vì vậy rất là vất vả, đúng là như bài nhạc mà Phật tử Từ Âm đã diễn tả: “Tuổi già như sương đâu biết gian lao”. Nhất là khi xã hội có những biến cố lớn.
HỌC TẬP
* * *
Về chương trình học tập Thượng toạ rất đề cao. Dù rằng ở tu viện về nhà cửa giới hạn chỉ có chỗ ăn chỗ ở mà không có chỗ học. Thiếu lớp học, Thượng toạ phải cho các Thiền sinh vào ngồi tạm trong nhà Thiền để làm chỗ học. Và sau khi học rồi thì cũng dùng chỗ đó để mà tu, để mà tụng kinh. Một vị trí mà dùng vào nhiều việc. Tuy nhiên Thượng toạ Viện chủ vẫn giảng dạy một cách tích cực trong những buổi học.
Thiền sinh Thích Như Phước T nhớ như in vào buổi học đầu tiên Thượng toạ Viện chủ đã dạy ngay bài học: “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa TÂM Kinh”. Và với lần học đầu tiên này Thiền sinh đây nhớ lại lời trong Quán Thế Âm Bồ Tát diễn ca, với từ ngữ “...sá gì nhị biên”. Thiền sinh này rất là mừng gặp được từ ngữ “sá gì nhị biên” đúng là như văn kinh đã nói:
“Bất sinh - Bất diệt
Bất cấu - Bất tịnh,
Bất tăng - Bất giảm”.
Đây quả là “sá gì nhị biên”. Tức là không hai bên, là đoạn chữ “Bất” của bài kinh Bát Nhã vậy. Thế là chỗ mắc mứu là chính đây vậy. Là ở chỗ đoạn chữ “Bất” này.
Vậy là đúng rồi. Người muốn tu, tức là muốn qua tất cả khổ nạn thì phải thường xuyên “sá gì” hai bên (nhị biên). Thiền sinh đây lại trầm ngâm: “Phải rồi! Phải rồi! Đúng là đây rồi”. Nếu muốn không khổ đau thì chẳng (bất) dính mắc bên này bên kia, “bên sinh bên diệt”; “bên cấu bên tịnh”, tức là không bên dơ, không bên sạch. Phải không dính cả hai bên, và phải không dính “bên tăng” không dính “bên giảm” tức là phải không dính cái thêm, không dính cái bớt. Và Thiền sinh này lại ngẫm nghĩ thêm rằng không phải chỉ không dính ba cặp này mà thôi, mà phải không dính hết tất cả các cặp. Các cặp “có hai” đều nên không dính, đều nên không mắc tức là phải “bất” hết các cặp “có hai”. Quả đây là “yếu quyết” của người hành đạo. Phải “bất” hết thì mới thật là “vô chấp”. Tức là tu là phải không còn chấp một thứ gì trong tâm ý và ngoài đời nữa. “Không chấp” thì không có niệm, không có nghĩ, không có tưởng, không có vọng thức, không có vọng tình, thì không có gì để sinh ra niệm Tham, niệm Sân, niệm Si, niệm v.v…, thì làm gì có đau khổ. Ô! Quả là hay! Quả là tuyệt! Quả là “sá gì nhị biên”! Chỗ thâm thuý là đây, chỗ cao siêu là đây, chỗ thành đạo là đây. Thế nên chú tiểu Kỉnh TÂM đã thành Phật “Quan Thế Âm” là phải thôi. Vạn vạn tuế Quan Thế Âm, vạn vạn tuế. Tiểu Kỉnh TÂM thành Phật Quan Thế Âm là phải thôi.
Chú Thiền sinh khi phát hiện ra điều này chú rất sung sướng. Bao nhiêu năm trời mới biết ra cái ngầm ý của “sá gì nhị biên”. Chú mừng quá đến nỗi không còn nghe Thượng toạ Viện chủ nói gì nữa. Chú chỉ nhìn Thượng toạ Viện chủ trân trối mà mỉm cười với đoạn kinh chữ “Bất”. Chú cũng lặng lẽ mà nhìn lên Đức Phật và cũng thấy rõ các huynh đệ trong ngoài lớp và rõ ràng hư không đang êm ắng, trời vẫn sáng, vẫn toả rạng như ánh sáng 10 giờ trưa.
Tan học Thiền sinh Thích Như Phước T ra ngồi bên tảng đá dưới đồi sứ nhìn ra biển. Thiền sinh thấy rõ trời đất bao la như bài Kinh Bát Nhã đã nói: Chiếu kiến ngũ uẩn giai “KHÔNG”. Cái “KHÔNG” quả thật là mênh mông vô tận không một vật gì trong đó. Nó không có Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn, Thức uẩn. Rõ ràng không một vật, không một thứ gì trong đó. Nó hoàn toàn rỗng rang không trống, là bất động yên lặng tợ như như. Trong cái “KHÔNG” này nó cũng hông có (Vô) hông có Sắc, hông có Thọ, hông có Tưởng, hông có Hành, hông có Thức (Năm Uẩn). Hông có Nhãn (mắt), hông có Nhĩ (lỗ tai), hông có Tỷ (lỗ mũi), hông có Thiệt (cái lưỡi), hông có Thân (cái mình), hông có Ý (cái não) (Sáu Căn). Hông có Sắc (màu sắc, hình thù), hông có Thinh (âm thanh), hông có Hương (mùi hương), hông có Vị (vị lưỡi), hông có Xúc (sự đụng chạm), hông có Pháp (hình bóng trong Tâm Ý) (đây là Sáu Trần). Đây là các pháp Thế Gian.
Hông có Nhãn giới, cho đến hông có Ý Thức giới (18 Giới). Hông có Vô minh, cũng hông có Vô minh tận, cho đến hông có Lão tử, cũng hông có Vô lão tử tận (12 Nhân Duyên). Hông có Khổ, Tập, Diệt, Đạo (Tứ Đế), hổng có Trí cũng hổng có Đắc (pháp A La Hán). Đây là các pháp Xuất Thế Gian.
Như vậy trong đoạn chữ “Vô” của bài kinh Bát Nhã cho thấy rằng trong cái “KHÔNG” hông có các pháp Thế Gian và cũng hông có các pháp Xuất Thế Gian.
Thiền sinh Thích Như Phước T lẩm nhẩm đến đây liền vươn vai đứng lên thở một hơi dài nhẹ nhõm và cất bước đi theo con đường Giải Thoát để đến Nhà Khách. Thiền sinh này rõ ràng từ Đồi Tự Tại qua Đường Tiêu Dao để đến Nhà Khách, rõ ràng mình không dính vào đâu cả. Không dính vào đồi đá Tự Tại mới đứng lên được, không dính hai bên lề phải trái mới đi tới được. Và không có vướng cái gì trước đầu mới có thể đi tới Nhà Khách được. Như vậy mới thật là Tự Tại bước trên con đường Giải Thoát là ba cái điểm vị trí của tu viện Chơn Không (1. Đồi Tự Tại, 2. Con đường Giải Thoát, 3. Nhà khách). Con đường này có hơn trăm thước.
Đến Nhà Khách rồi Thiền sinh ngồi vào bàn khách và rót nước uống. Uống nước tới đâu nghe mát cổ mát lòng tới đó. Thật là Phật pháp mầu diệu. Thiền sinh mới thấy ra rằng ý nghĩa trọn vẹn của câu “sá gì nhị biên”. “Sá gì” có nghĩa là bỏ đi không đếm xỉa gì tới. Và “nhị biên” là hai bên. Tức là hãy bỏ đi đừng chấp vào, đừng dính mắc vào các thứ có hai. Thì chúng ta thể nhập vào được cõi “KHÔNG” mà không dính vào tấm thân Ngũ uẩn thì không có gì để khổ, không có gì để đau, và trở thành Bồ Tát Quán Tự Tại là anh hùng Trí huệ. Và trở thành Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ Tát có lòng thương chúng sinh bao la mà nghe tiếng kêu cứu của người liền cứu khổ cứu nạn cho, để qua được tất cả khổ nạn. Thiền sinh uống ly nước xong nghe mát mẻ cả ruột gan và khắp toàn thân. Liền đó Thiền sinh nghe ba tiếng bảng gỗ “Cóc, cóc, cóc”. Đó là bảng lệnh cho giờ cơm trưa. Thiền sinh đứng lên đi về trai đường để ăn cơm. Một bữa ăn Thiền sinh Thích Như Phước T ăn rất ngon. Chừng như là ngon nhất đời từ nhỏ cho đến lúc bấy giờ mới có bữa ăn ngon như vậy. Bữa ăn mà “sáu Căn” đều thơ thới.
Thiền sinh đứng lên khỏi trai đường tay bưng mâm cầm bát đi đến chỗ rửa mâm và bát. Rửa xong Thiền sinh úp ra phơi nhưng nhìn trời lại chợt nhớ đến câu: “Dứt không Tứ tướng”. Thiền sinh lại nghĩ tiếp: Còn lại “Dứt không Tứ tướng” là sao? Chừng nào mình mới biết được đến câu “Dứt không Tứ tướng” này? Câu “Dứt không Tứ tướng” chắc phải là ý nghĩa sâu sắc lắm đây. Và phải là câu rất thiết yếu cho đời hành đạo lắm. Thiền sinh đứng nhìn trời mà ngẩn ngơ không có một chút ý niệm nào trong câu “Dứt không Tứ tướng”. Thiền sinh lại lững thững đi về phòng riêng để nghỉ trưa.
TÌNH THẦY TRÒ – NGHĨA HUYNH ĐỆ
* * *
Trải qua một thời gian sống êm đềm bên Ân sư và chư huynh đệ rất là hạnh phúc, rất là ấm áp trong tình thầy trò, tình huynh đệ. Nhất là vào những buổi chiều tà sau khi uống bột. (Buổi chiều ở viện không có ăn chỉ uống bột mà thôi). Thế nên buổi chiều có nhiều thời gian hơn. Tu viện về chiều khuất núi sớm cho nên tắt nắng cũng sớm hơn. Và lúc bấy giờ thầy trò cùng xúm sít bên một gộp đá, hay trên mặt hồ nước mà cùng nhau thưa hỏi. Và thầy nhân đó mà giảng giải chỉ điểm cho. Những buổi chiều như thế này có khi quây quần nhìn ra biển, có khi nhìn lên chóp núi. Giờ này những con dơi ở dưới thành phố bay lên núi để kiếm lương thực bỏ bụng vào chiều. Những lương thực đó chính là những đàn muỗi từ trên núi toả ra để kiếm mồi. Muỗi thì không biết kiếm mồi gì, nhưng chính những con dơi kiếm mồi đó là muỗi. Trong cảnh này những con dơi bay lượn giống như những chiếc máy bay bỏ bom oanh tạc trong chiến địa, trông cũng rất ngoạn mục. Trong cảnh này có một Thiền sinh mở miệng lên rằng: Những con dơi này nó thật là hay, ở trên không trung mà bắt muỗi thật tài.
Sư phụ nghe nói liền mở lời: - Chú này sao ác thế? Lòng dạ của chú còn nhiều nghiệp “sát”.
Thiền sinh nghe sư phụ quở mình còn nghiệp “sát” nặng thì thun đầu le lưỡi. Nào giờ mình có nghiệp “sát” mà nào có hay. Nếu không có thầy chỉ điểm thì làm sao biết mình có nghiệp “sát” nặng nề. Quả là như vậy. Tại sao mình không cho những con dơi kia nó bay lượn là thao dợt một kỹ thuật nào đó để mà chơi thôi, mà lại cho rằng nó bay lượn để bắt muỗi đại tài. Thế nên học đạo mà có được gần thầy bên cạnh như vậy thì thật là tốt cho đời tu học. Có thầy, thầy nhắc nhở, thầy chỉ điểm cho những lỗi lầm mà mình không tự thấy. Quả đúng như lời của Đức Tổ Huệ Năng đã dạy:
“Thường tự biết lỗi mình,
Cùng đạo tức tương ưng”.
Đó thật là chí lý.
Những buổi chiều tà được gần bên thầy, được nghe lời chỉ dạy của thầy quả là duyên phúc cho người đệ tử “có lòng cầu đạo”. Những lời dạy buổi chiều trên núi cao thế này của sư phụ có thể ghi vào “Ngữ Lục” tốt lắm.
Có thầy là có cả kho tàng trí huệ. Hãy khéo mà trân trọng.
Thế rồi chuyện gì đến thì cũng sẽ phải đến.
“DỨT KHÔNG TỨ TƯỚNG”
* * *
Thời gian rồi cũng chậm rãi trôi qua đến lúc chương trình học tiếp tục, thầy dạy Kinh Kim Cang từ bản chữ Hán. Thầy vừa dạy và vừa dịch cho các học trò nghe để theo dõi mà học (không có tài liệu).
Thầy viện chủ đọc: “Tôi nghe như vầy: Một lúc nọ Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc dưới cây ông Kỳ, thuộc nước Xá Vệ, Ngài cùng với 1.250 Tỳ Kheo chung hội.
Khi sắp đến bữa ăn trưa, Đức Thế Tôn mặc y cầm bát mà đi vào thành lớn Xá Vệ để xin ăn.
Vào trong thành, chia ra thứ lớp đi xin đã xong, rồi trở về chỗ cũ. Bữa ăn đã xong, thâu dọn y bát rồi, rửa chân xong, Đức Phật trải toà ra ngồi nghiêm chỉnh.
Lúc đó ông Tu Bồ Đề liền đứng dậy từ chỗ ngồi trong chúng, ông trịch bày vai bên mặt và quỳ gối mặt sát đất, kính cẩn chắp tay mà thưa cùng Phật:
-Đấng Thế Tôn thật ít có! Đấng Như Lai đã khéo hộ niệm cho các vị Bồ Tát, đã khéo phó chúc cho các vị Bồ Tát!
-Thưa đấng Thế Tôn, có người thiện nam kẻ thiện nữ đã phát khởi TÂM A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề thì làm sao mà “trụ” được, làm sao mà “hàng phục” được TÂM ấy?
Đức Phật nói: Hay thay! Hay thay! Này ông Tu Bồ Đề, theo ông nói thì: Đấng Như Lai khéo hộ niệm cho các Bồ Tát, cũng khéo phó chúc cho các Bồ Tát.
Nay ông lóng nghe, ta vì ông mà nói: Người thiện nam kẻ thiện nữ đã phát khởi TÂM Bồ Đề, thì hãy nên như thế này mà “TRỤ” như thế này mà “HÀNG PHỤC” cái “TÂM” đó.
-Thưa đấng Thế Tôn! Con xin vâng, nguyện vui thích muốn được nghe.
Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề:
“Các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đã như thế này mà “HÀNG PHỤC” “TÂM” đó: “Có bao nhiêu loài chúng sanh, hoặc là loài Noãn sanh, hoặc loài Thai sanh, hoặc loài Thấp sanh, hoặc loài Hoá sanh, hoặc loài Có hình sắc, hoặc loài Không hình sắc, hoặc loài Có tưởng, hoặc loài Không có tưởng, hoặc loài Chẳng phải có tưởng chẳng phải Không có tưởng, ta đều khiến vào Vô Dư Niết Bàn mà được diệt độ hết. Cứ như thế mà diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh, mà thật ra không có một chúng sanh nào diệt độ.
Vì sao? – Này Tu Bồ Đề, nếu vị Bồ Tát có tướng Ngã, tướng Nhân, tướng Chúng sanh, tướng Thọ giả, tức vị đó chẳng phải là Bồ Tát.”
Thiền sinh Thích Như Phước T nghe đến đây nhìn lên thầy trừng trừng mà gãi đầu, như muốn nói lên rằng: Ô! Đây rồi, cái mà mình muốn biết từ bấy lâu nay chính là đây: “Dứt không Tứ tướng”. Thì ra Tứ tướng là bốn tướng này đây: là Tướng Ngã, Tướng Nhân, Tướng Chúng sanh, Tướng Thọ giả. Nhưng tại sao có bốn tướng thì vị đó chẳng phải là Bồ Tát. Tức khi sống tu có bốn tướng thì không phải là người hành đạo tốt nên không phải là một Bồ Tát. Khi tu mà có dính mắc bốn tướng thì vị đó chẳng phải là Bồ Tát tức chẳng phải là một người tốt ở trong cuộc đời nữa. Tại làm sao vậy? Và khi đã không phải là Bồ Tát thì lại là cái gì, là người gì? Thiền sinh này không tự trả lời được mà lại phải nghe tiếp:
Này Tu Bồ Đề, lại nữa Bồ Tát ở nơi pháp nên “không chỗ trụ” mà hành Bố thí.
“Chỗ không chỗ trụ” đó là chẳng trụ ở Sắc mà bố thí, chẳng trụ ở Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà bố thí.
Này Tu Bồ Đề, Bồ Tát phải nên bố thí như vậy mà chẳng trụ trên tướng, vì sao? – Nếu Bồ Tát chẳng nơi tướng mà bố thí, thì phước đức chẳng thể nghĩ lường.
Này Tu Bồ Đề! Theo ý ông nghĩ sao? Hư không ở phương Đông có thể nghĩ lường được chăng?
-Thưa đấng Thế Tôn, không thể nghĩ lường được.
Này Tu Bồ Đề, hư không ở các phương Tây, Nam, Bắc, bốn hướng phụ có thể nghĩ lường được chăng?
-Thưa đấng Thế Tôn không thể nghĩ lường được.
Này Tu Bồ Đề, Bồ Tát không trụ tướng bố thí thì cũng không thể nghĩ lường được.
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát phải nên trụ như chỗ dạy này.
Này Tu Bồ Đề! Theo ý ông nghĩ sao? Ông có thể dùng thân tướng để thấy Như Lai được chăng?
-Thưa đấng Thế Tôn! Con chẳng thể dùng thân tướng để được thấy Như Lai. Vì sao? Vì Như Lai nói thân tướng tức chẳng phải thân tướng.
Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề: Phàm cái gì có “Tướng” thì đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng thì thấy được Như Lai.
Ông Tu Bồ Đề thưa với Phật:
-Thưa đấng Thế Tôn, nếu có chúng sanh nào được nghe lời nói chương cú như thế này, có sanh được niềm tin chân thật chăng?
Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề:
Ông chớ nói như vậy! Sau khi Đấng Như Lai diệt 500 năm cuối sau, có người trì giới tu phước, y theo chương cú này, mà có thể sanh tín tâm, cho lời này là thật thì nên biết người đó chẳng phải chỉ trồng căn lành ở một vị Phật, hai vị Phật, ba bốn năm vị Phật, mà đã trồng căn lành ở nơi vô lượng muôn ngàn đức Phật rồi.
Ai nghe chương cú này mà sanh niềm tin trong sạch, chỉ trong một niệm thôi. Này Tu Bồ Đề thì Như Lai đều thấy, đều biết, những chúng sanh này được phước đức vô lượng như vậy.
Vì sao? – Vì những chúng sanh này không còn tướng Ngã, tướng Nhân, tướng Chúng sanh, tướng Thọ giả, không có tướng Pháp, cũng không có tướng Phi pháp.
Vì sao? – Vì những chúng sanh này nếu trong tâm còn mắc tướng, tức còn dính Ngã, Nhân, Chúng sanh, Thọ giả và nếu còn nắm giữ tướng Pháp thì mắc phải: Ngã, Nhân, Chúng sanh, Thọ giả.
Vì sao? – Vì nếu nắm giữ cái tướng Phi pháp, tức dính mắc cái Ngã, cái Nhân, cái Chúng sanh, cái Thọ giả. Thế nên chớ nắm giữ Pháp và chớ nắm giữ Phi pháp.
Do nghĩa này mà Đức Như Lai thường nói:
Này các vị Tỳ Kheo, phải biết những pháp của ta nói đó giả dụ như thuyền bè thôi, đối với Pháp hãy còn buông xả, huống là Phi pháp.
Thầy giảng đến đây thì có điểm ba hồi chuông nghỉ học và toàn chúng đều hồi hướng. Tan học.
Thiền sinh Thích Như Phước T bước ra ngoài gốc Bồ Đề để xả hơi. Thiền sinh đã nghe qua một đoạn kinh khá dài và cũng khá lòng vòng mà cũng không hiểu được thế nào là Tứ tướng, và vì sao phải không Tứ tướng mới phải là một Bồ Tát. Thiền sinh nhìn bâng quơ, nhìn lên đọt lá Bồ Đề. Thiền sinh ôn lại những lời thầy đọc qua.
Trong văn kinh mới nêu lên Tứ tướng mà chưa giải quyết gì về việc Tứ tướng thì lại bước sang việc Bồ Tát nơi pháp nên không chỗ trụ mà hành bố thí. Đây là một chuyện rất là lạ. Mới nói về Tứ tướng lại chuyển sang pháp Bố Thí là vì sao thế?
Điều này phải chăng Đức Phật muốn cho thấy về năng lực tu mà không trụ tướng hay không chấp tướng mà đem pháp Bố Thí ra để làm thí dụ cho thấy rằng Bồ Tát tu Bố Thí mà không chấp không trụ ở Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp tức là không trụ Sáu Trần, không dính mắc trên Sáu Trần mà Bố Thí thì có kết quả là không thể nghĩ bàn, phước đức thật là vô lượng vô biên. Phước đức sẽ đầy cả hư không do vì không trụ vào Sáu Trần mà Bố Thí. Tức là không “Trụ tướng”. Để thấy rõ rằng nếu Bồ Tát tu mà có dính tướng có chấp tướng, có trụ tướng nhất là có dính vào Tứ tướng: Tướng Ngã, Tướng Nhân, Tướng Chúng sinh, Tướng Thọ giả thì có sự dính mắc rất là nặng nề, không thể có phước đức vô lượng vô biên được. Nên “chẳng phải” là Bồ Tát.
Vì Tướng Ngã là cái chấp cái dính vào cái Ta, vào cái Mình, vào cái Tôi, vào cái Chủ Thể tức có sự điên đảo sinh ra nên mất hết công đức.
Tướng Nhân là cái tướng ở nơi người, là dính mắc chấp bám ở nơi người, ở nơi đối tượng tức có ngôi thứ hai làm chỗ cho sự điên đảo dính vào, mắc lấy nên mất hết công đức và trở thành ra pháp có hai. Cho nên có sự ràng buộc trong nhau.
Tướng Chúng sinh là tướng dính mắc vào các vấn đề, các sự kiện giữa Ngã và Nhân. Có một sự lằng nhằng xảy ra kết thành cái tướng điên đảo ràng buộc một cách cụ thể.
Tướng Thọ giả, khi có Tướng Ngã, có Tướng Nhân, có Tướng Chúng sinh ba thứ hợp lại để sinh ra việc thọ nhận trở thành có thời gian, có tuổi thọ, có các cảm giác buồn, vui, thương, ghét, có sướng có khổ, có khổ đau sinh ra.
Bốn tướng này được hiểu cụ thể như một người nam là Ngã, gặp một người nữ là Nhân và có những vấn đề sinh ra giữa người nam và người nữ để rồi có thương có ghét, có dính líu lằng nhằng trên thân xác để có ra con cái là Chúng sinh và trở thành ra một cuộc sống có nhiều đau khổ.
Thiền sinh Thích Như Phước T đã suy nghiệm vấn đề được như vậy nhưng rồi không biết có phù hợp hay không. Thiền sinh lại chiêm nghiệm tiếp. Và Đức Phật lại nói thêm: Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát phải nên trụ như chỗ này (chỗ dạy Bố Thí không trụ tướng).
Đức Phật lại chuyển sang một vấn đề sâu sắc hơn:
- Này Tu Bồ Đề. Theo ý ông nghĩ sao? Ông có thể dùng “Thân Tướng” để thấy Như Lai được chăng?
Ngài Tu Bồ Đề thưa:
-Thưa đấng Thế Tôn! Con chẳng thể dùng “Thân tướng” để được thấy Như Lai. Vì sao? – Vì Như Lai nói “Thân tướng” tức “chẳng phải thân tướng”. Đức Phật bảo Tu Bồ Đề:
-Phàm cái gì có “Tướng” thì đều là hư vọng. Nếu thấy Các tướng chẳng phải tướng tức thấy được Như Lai.
Đến đây Thiền sinh lại ngồi mạnh trên toà đá mà rằng: Thì ra Đức Phật nói quanh quanh là đi tới kết luận: “Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy được “Như Lai”. Thiền sinh lại đấm mạnh tay lên tảng đá: “Hèn gì Bồ Tát tu mà chấp tướng thì chẳng phải là Bồ Tát. Không chấp tướng mới thấy được Như Lai”. Thiền sinh há hốc miệng mà rằng đây mới chính thật tu chớ nên chấp tướng huống nữa là chấp đến Tứ tướng. Một tướng còn không huống nữa là chấp bốn tướng làm sao là Bồ Tát được! Ôi! Sung sướng biết bao là. Phải như vậy chứ. Tu mà chấp tướng, mà lại là chấp bốn tướng Ngã, Nhân, Chúng sinh, Thọ giả thì làm sao mà thành được cái gì chứ?! Chỉ thành ma thành quỷ thành ngoại đạo mà thôi.
Ngài Tu Bồ Đề lại thưa với Đức Phật:
-Thưa Đấng Thế Tôn nếu có chúng sinh nào nghe được chương cú như thế này lại sanh niềm tin chân thật chăng?.
Đức Phật bảo Tu Bồ Đề:
Ông chớ nói như vậy! Sau khi đấng Như Lai diệt 500 năm cuối sau, có người trì giới, tu phước, y theo chương cú này, mà có thể sanh tín tâm, cho lời này là thật thì nên biết người đó chẳng phải chỉ trồng căn lành ở một vị Phật, hai vị Phật, ba, bốn, năm vị Phật mà đã trồng căn lành ở nơi vô lượng muôn ngàn Đức Phật rồi.
Ai nghe chương cú này mà sanh niềm tin trong sạch, chỉ trong một niệm thôi. Này Tu Bồ Đề thì Như Lai đều thấy, đều biết, những chúng sanh này được phước đức vô lượng như vậy.
Vì sao? Vì những chúng sinh này không còn tướng Ngã, tướng Nhân, tướng Chúng sanh, tướng Thọ giả không có tướng Pháp, cũng không có tướng Phi pháp.
Vì sao? – Vì những chúng sanh này nếu trong tâm còn mắc tướng, tức còn dính Ngã, Nhân, Chúng sanh, Thọ giả và nếu còn nắm giữ tướng Pháp thì mắc phải: Ngã, Nhân, Chúng sanh, Thọ giả.
Vì sao? – Vì nếu nắm giữ tướng Phi pháp tức dính mắc cái Ngã, cái Nhân, Chúng sanh, Thọ giả.
Thế nên chớ có nắm giữ Pháp và chớ nắm giữ Phi pháp.
Do nghĩa này mà Đức Như Lai thường nói: Này các vị Tỳ kheo, phải biết những pháp của ta nói đó giả dụ như thuyền bè thôi, đối với Pháp hãy còn buông xả, huống nữa là Phi pháp.
Thiền sinh lại gặm nhấm thêm về điều này và lại càng xác quyết hơn “Pháp” còn phải xả hà huống là “Phi pháp” (chẳng phải Pháp). Cho nên Tứ tướng nhất định không thể dính mắc được. Và một vị Bồ Tát nhất định phải không có Tứ tướng. Phải không có Tướng Ngã, Tướng Nhân, Tướng Chúng sanh, Tướng Thọ giả. Đây là bốn tướng làm nên đau khổ, làm nên ràng buộc, mất hết hoàn toàn năng lực giải thoát.
Thế nên lời nói ở trong sách Quan Âm Thị Kính diễn ca quả là chính xác:
Dứt không Tứ tướng sá gì nhị biên
Đạo này huyền thật là huyền,
Hư không mà vẫn đạm nhiên thế này.
Tiểu đà mến đạo tới đây,
“Kỉnh TÂM“ tên đặt từ nay gọi thường.
Thế là Thiền sinh Thích Như Phước T lấy làm thoả thích. Chú rất lấy làm tiếc trong sách của Thiều Chửu không có giải nghĩa về chỗ này chỉ nói lớt lớt qua mà thôi. Giờ đây chính mình đã khám phá ra được. Nhưng ngay Kinh Kim Cang cũng không có giải rõ về Tứ tướng thì biết làm sao. Liền đó có ba tiếng bảng báo cơm và Thiền sinh phải trở về trai đường để chuẩn bị thọ trai.
Trên bàn ăn Thiền sinh vẫn còn một chút mắc mứu Tứ tướng trong kinh Kim Cang không có giảng, không có nói về nghĩa bốn tướng thì phải làm sao để hiểu cho được chính xác nên Thiền sinh ăn không thấy ngon chỉ nuốt vội vàng cho xong bữa mà thôi. Lúc bấy giờ những tâm thái cử chỉ ăn uống của Thiền sinh không qua mắt được người huynh đệ ngồi đối diện.
Ăn xong người huynh đệ đối diện vỗ vai Thiền sinh mà rằng: Chẳng hay huynh đài trong lòng có sự vụ gì mà xem chừng nan giải mà nuốt cơm không trôi. Huynh đài có thể chia sẻ với tiểu đệ được không? Thiền sinh với ánh mắt buồn mà nói với người huynh đệ rằng: Quả là sư đệ có con mắt tinh tường đã thấy rõ tim đen của huynh. Nhưng việc này không biết tiểu đệ có thể giúp gì được cho huynh hay không. Người huynh đệ mới hỏi rằng là chuyện gì?
-Là chuyện Tứ tướng trong kinh Kim Cang.
Người huynh đệ sáng mắt lên mà rằng: Ôi! Tưởng chuyện gì, Tứ tướng có nằm sẵn trong kinh Viên Giác đệ có đây để đưa cho huynh xem.
Thiền sinh Thích Như Phước T sáng mắt ra và cặp tay người huynh đệ dẫn về phòng ngay để nhận quyển kinh quý báu ấy.
“TỨ TƯỚNG” TRONG KINH VIÊN GIÁC
* * *
Thiền sinh Thích Như Phước T sau khi xem qua phần lý giải của Kinh Viên Giác về Tứ tướng. Thiền sinh đã làm thành một sự giao hoà giữa Bát Nhã, Kim Cang và Viên Giác thành một hợp xướng có tên là “Vô Sở Đắc”.
Ở bài Kinh Bát Nhã, đoạn chữ Vô có câu “Vô Sở Đắc” (không chỗ được).
Đây là không được gì ở pháp thế gian (Vô Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý…), và cũng không được gì ở pháp xuất thế gian (Vô Khổ Tập Diệt Đạo, Vô Trí diệc Vô Đắc). Đây là: “Vô Sở Đắc”.
Đây là lời dặn dò tối hậu, là Hành Đạo không gì để chứng, không gì để được. Có “Chứng” có “Đắc” đều trái Đạo, không vào được Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Chỗ “Vô Sở Đắc” này đó là chỗ mà Kinh Kim Cang Bát Nhã đã nói: “Không Tứ Tướng”:
-Không tướng Ngã.
-Không tướng Nhân.
-Không tướng Chúng Sanh.
-Không tướng Thọ Giả.
Và 4 điều này đã được Kinh Viên Giác, phẩm Tịnh Chư Nghiệp Chướng đã giải thích (nguyên văn):
Này Thiện nam tử, sao gọi là tướng Ngã? Vì tâm ác chúng sanh có chỗ bám.
Này Thiện nam tử, giống như người có nhiều điều vui, chợt quên thân mình, tứ chi chơi vơi tiếp dưỡng trái phương, đem kim châm ngải đốt liền biết có Ngã, nên cảm nhận mới biết Ngã thể. Này Thiện nam tử, tâm đó cho đến chỗ hiểu biết rốt ráo thanh tịnh Niết Bàn của Như Lai đều là Ngã tướng. (Vô Sở Đắc)
Này Thiện nam tử, sao gọi là tướng Nhân? Vì tâm của chúng sanh ngộ cái chứng đó. Này Thiện nam tử, ngộ có Ngã đó, chẳng chịu nhận Ngã, chỗ ngộ chẳng phải Ngã, ngộ cũng như thế, ngộ đã vượt qua tất cả cái chứng đó (Vô Sở Đắc), chính là Nhân tướng. Này Thiện nam tử, tâm đầy đủ cho đến viên ngộ đều là Ngã cả, tâm còn chút ngộ, chứng lý đầy đủ, đều là Nhân tướng. (Vô Sở Đắc).
Này Thiện nam tử, sao gọi là tướng Chúng sanh? Vì tâm chúng sanh chứng ngộ chỗ không đâu. Này Thiện nam tử, giống như có người nói thế này: “Tôi” là “chúng sanh” thì biết người ấy nói về chúng sanh vậy, mà chẳng phải tôi, chẳng phải người. Sao là chẳng phải tôi. “Tôi” là chúng sanh thì chẳng phải tôi. Sao gọi là chẳng phải người? “Tôi” là chúng sanh thì chẳng phải “cái tôi” của người. Này Thiện nam tử, những chúng sanh liễu chứng liễu ngộ đều là Nhân Ngã, mà tướng Ngã Nhân thì không đâu, còn lại có chỗ liễu (Vô Sở Đắc), gọi là tướng Chúng Sanh.
Này Thiện nam tử, sao gọi là tướng Thọ Mạng? Vì tâm chúng sanh chiếu soi (Trí) giác thanh tịnh mà liễu. Tất cả Nghiệp, Trí không thể tự thấy, cũng như mạng căn, Thọ mạng (Thân mạng) (căn chẳng rõ căn).
Này Thiện nam tử, nếu tâm chiếu soi thấy tất cả (Trí) giác đều trần cấu. Giác được chỗ giác, giác này không rời trần mà có. Như nước nóng làm tan băng thì không riêng có băng, biết rằng băng tiêu. Còn cái Ngã, giác cái Ngã cũng lại như vậy. (Vô Sở Đắc).
Qua ba Kinh: Kinh Bát Nhã, Kinh Kim Cang, Kinh Viên Giác đều cho thấy rằng: DỨT KHÔNG TỨ TƯỚNG SÁ GÌ NHỊ BIÊN là chuẩn mực để hành đạo. Người tu là Bồ Tát Quán Tự Tại (Avalokitesvara). Chữ Avalokitesvara cũng được dịch là Quán Thế Âm. Quán Tự Tại Bồ Tát là dịch theo nghĩa Trí Huệ và Quán Thế Âm Bồ Tát là dịch theo nghĩa Từ Bi. Mà một Bồ Tát thì phải đủ hai đức là phải đủ Trí Huệ và phải đủ Từ Bi, nhưng phải có Trí Huệ trước thì sức sống Trí Huệ đến với chúng sinh được gọi đó là Từ Bi. Cho nên Từ Bi và Trí Huệ không rời nhau, nếu chỉ có Trí Huệ hay chỉ có Từ Bi mà thôi thì chưa được gọi là Đại Bồ Tát. Một vị Đại Bồ Tát (Bồ Tát Ma Ha Tát) phải đầy đủ Trí Huệ và Từ Bi. Từ Bi và Trí Huệ giống như con chim có hai cánh, nếu chít một cánh thì bay không được. Thế nên Đại Bồ Tát phải là người có đủ năng lực Trí Huệ và Từ Bi. Hãy cẩn thận để mà sanh hiểu cho đúng giữa Trí Huệ và Từ Bi, giữa Từ Bi và Trí Huệ. Vì vậy người hành đạo phải học Bát Nhã và phải thể nhập pháp Bát Nhã. Muốn học pháp Bát Nhã phải ngộ Tánh KHÔNG và phải hiểu rằng Tánh KHÔNG là sức sống Phật và như vậy ta có:
KHÔNG = PHẬT .
Như vậy sống bằng KHÔNG mà tu thì đó chính là từ Phật mà tu và Phật tức là TÂM (Bản TÂM). Nên trong Tánh KHÔNG chỉ có Phật, chỉ có TÂM mà không có Ngũ uẩn, không có Ngũ ấm. Thế nên cái thân nghiệp là Ấm hay Uẩn đều phải mang Tánh KHÔNG giống như cái bong bóng màu xanh hay màu đỏ đều phải mang cùng một chất không khí. Và không khí mới là cái thật còn da bong bóng chỉ là cao su, là cái giả, không thật. Đó là cái Ấm hay là cái Uẩn. Để vào Bát Nhã thì phải nhận ra cái Tánh KHÔNG, đó mới là thật tánh của cái Ngũ uẩn hay Ngũ ấm. Cái uẩn và cái ấm mới có cái khổ, mới làm cho con người khổ, còn cái KHÔNG không có cái khổ, chỉ có Phật mà thôi. Nó chính là Bản TÂM là TÂM Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. Thế nên để hành thâm Bát Nhã là phải 24 giờ trên 24 giờ thường xuyên “sống bằng” Tánh KHÔNG hay sống bằng chữ Bất và chữ Vô. Cuối cùng là “Vô Sở Đắc” (Bát Nhã) và “Vô Sở Trụ” (Kim Cang).
Nam Mô Phật
Mùa Vu Lan 2025, PL. 2569
CHÚ THÍCH
(Của THIỀU CHỬU)
*
* *
Chúng sinh đều có Phật TÍNH, đều có nhân thành Phật cả. Cho nên Phật nói: TÂM, Phật, chúng sinh ba giới không có gì sai khác gì nhau cả, chỉ ở chỗ mê với ngộ mà thôi. Ngộ được là ta sẵn có Phật TÍNH, cố gắng tiến tu, điều ác bỏ hết, điều thiện cố làm, tất là thành Phật. Trái lại mê man say đắm danh lợi dục lạc, làm cho TÍNH Phật mờ dần, lòng trần dầy đặc, thì tất phải trầm luân. Phật pháp vô biên, rút lại chỉ thế thôi. Nhưng phải nhận cho rõ cái bản chỉ của Phật là thiện ác thành bại, đều là đối đãi cả. Phật vì thế gian chưa tỏ ngộ, nên Phật mới nói thế thôi, chứ Bản Thể thì chẳng có gì là được là hỏng, là thành là bại cả. Khi đã thấy chỗ mê lầm rồi, thì phải biện rõ cái lẽ chân giả như thế mà tu hành, thì mới thành công lớn được. Nếu không hiểu thế, làm thiện chỉ cầu phúc báo, thì rốt cuộc chỉ được cái quả nhỏ thường ở thế gian thôi, không thể vượt ra ngoài thế gian được.
CHƯ ÁC MẠC TÁC
CHÚNG THIỆN PHỤNG HÀNH
TỰ TỊNH KỲ Ý
THỊ CHƯ PHẬT GIÁO
(Các việc ác chớ làm
Hãy làm các việc lành
Giữ lòng luôn trong lặng
Đó là lời Chư Phật dạy)
Các bài mới
- Về Thăm Thầy - 09/09/2025
- Ân Đức Sâu Dày - 02/09/2025
- Ngày cuối cho mẹ - 26/08/2025
- Một Đời Sống Đạo - 06/07/2025
- Niềm Vui Lớn Mỗi Dịp Tết Đến Là Được Về Non Thăm Thầy - 01/02/2025
Các bài đã đăng
- Rắn Chết - Rắn Sống - 30/01/2025
- Chuyện Tổ Bồ Đề Đạt Ma - 05/11/2024
- Tâm Thiền, Tâm Xuân Nơi Khởi Đầu Tươi Mới - 12/02/2024
- Thầy - Những Câu Chuyện Và Lời Dạy - 24/04/2023
- Duyên Lành Với Sư Ông - 02/03/2023
Đạo phật với đời sống
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 44748
- Online: 28
