Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 16 GẠN HỎI ĐẠI CHÚNG VỀ CHỖ VIÊN THÔNG

06/08/2018 | Lượt xem: 2534

Dịch giả:HT.Thích Phước Hảo

Tác giả: TT.Thích Thông Phương

CHÁNH VĂN:

Khi ấy Đức Thế Tôn bảo khắp các vị đại Bồ-tát và các hàng lậu tận A-la-hán ở trong chúng rằng: “Các ông là những vị Bồ-tát, A-la-hán sanh trong Phật pháp đã chứng quả Vô học, nay Tôi hỏi các ông: Lúc ban đầu khi mới phát tâm, trong mười tám giới ngộ được viên thông ở giới nào và do phương tiện gì mà được vào Tam-ma-địa?”.

GIẢNG GIẢI:

Ở đây, Phật hỏi các vị đại Bồ-tát và các vị lậu tận A-la-hán, là những bậc đã thật chứng ngộ, đã sạch hết các lậu hoặc, thì những kinh nghiệm ban đầu tu chứng là gì? Những vị này tự thuật lại chỗ đã tự chứng, đã kinh qua bằng kinh nghiệm của chính mình không bằng suy luận.

 

CHÁNH VĂN:

Ông Kiều-trần-na, năm vị Tỳ-kheo liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch Phật rằng: “Khi con ở Lộc Uyển và nơi Kê Viên, xem thấy Đức Như Lai khi mới thành đạo, chúng con do nghe pháp âm của Phật ngộ pháp Tứ đế. Phật hỏi trong hàng Tỳ-kheo, thì con được gọi là nhận hiểu trước tiên. Như Lai ấn chứng cho con tên là A-nhã-đa, đi sâu vào bản tánh nhiệm mầu của âm thanh mà được viên dung sâu kín. Con do âm thanh mà được quả A-la-hán. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng được của con thì âm thanh là hơn hết”.

GIẢNG GIẢI:

Đây Ngài Kiều-trần-na hay Kiều-trần-như, một trong năm vị Tỳ-kheo đầu tiên ở nơi Lộc Uyển được Phật độ, đứng lên thưa. Năm vị đó là A-thấp-bà tức Ngài Mã Sư, thứ hai là Bạt-đề dịch là Hiền, thứ ba là Ma-nam-câu-lực, thứ tư là Kiều-trần-na dịch là Hỏa Khí, thứ năm là Thập-lực Ca-diếp.

Năm vị này cùng nghe Đức Phật thuyết về Tứ đế, thì Ngài Kiều-trần-na thấy đạo trước hết nên được tên là A-nhã-đa tức là Giải. Do Ngài thấy đạo trước nên Ngài đại diện để trình bạch rõ là khi nghe pháp âm của Phật rồi ngộ pháp Tứ đế, Ngài đi sâu vào bản tánh nhiệm mầu của âm thanh được viên dung sâu kín, tức là từ âm thanh mà được vào đạo.

Nghe âm thanh mà suốt qua âm thanh, không dừng trên âm thanh, vượt khỏi thanh trần. Nếu nghe pháp như thế mới thật sự vào đạo, còn nghe mà chỉ phân biệt theo tiếng, là dừng trên âm thanh hoặc là kẹt trên thanh trần. Nhưng đa số người học đạo thường chỉ nghe dừng trên âm thanh, nghe tiếng rồi phân biệt trên tiếng nên không vào sâu được.

Đúng ra theo thứ lớp thì phải nói sắc trần trước: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thì đối với nhãn là sắc nhưng ở đây lại nói thanh trần trước, đó là có ý. Bởi vì giáo thể cõi Ta-bà này từ âm thanh được thành, nên người nghe pháp vào đạo thì phải nghe âm thanh. Thuyết pháp, là dùng âm thanh làm Phật sự, nên ở trong kinh dẫn chứng về âm thanh trước. Lại cũng muốn nhắc cho người học đạo phải nghe thấu qua âm thanh để thấy được pháp chân thật chứ không dừng trên âm thanh cho đó là đủ. Bởi vậy đây dẫn Ngài Kiều-trần-na thuật lại khi nghe âm thanh rồi đi sâu vào bản tánh nhiệm mầu của âm thanh mà được viên dung sâu kín, không dừng trên ngôn ngữ.

Trong nhà thiền có câu chuyện, có vị pháp sư đến hỏi Thiền sư Huệ Hải ở Đại Châu:

- Giờ định hỏi thầy một câu nhưng thầy có vui lòng đáp lại không?

Ngài Huệ Hải đáp:

- Bóng trăng dưới đầm sâu mặc ý mò bắt.

Vị pháp sư này hỏi là định hỏi thầy một câu, thầy có vui lòng đáp lại hay không? Sư không nói là được hay không được, chỉ nói giống như bóng trăng dưới đầm sâu mặc ý cho ông mò bắt, là sao? Hỏi thì Sư cũng sẵn sàng đáp nhưng lời đáp của Sư giống như bóng trăng dưới đầm sâu. Cốt yếu là phải ngộ được mặt trăng ở trên trời chứ không phải ở chỗ bóng trăng đó, tức phải đạt ý quên lời.

 

CHÁNH VĂN:

Ông Ưu-ba-ni-sa-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật rằng: “Con cũng thấy khi Phật mới thành đạo, do con quán tướng bất tịnh mà sanh tâm rất nhàm chán xa lìa, ngộ được thật tánh của các sắc. Do từ quán tướng bất tịnh, đến tướng xương trắng và tướng vi trần, đều tan về hư không, cả hai cái không và sắc cũng không, thành tựu đạo Vô học. Như Lai ấn chứng cho con tên Ni-sa-đà. Sắc của trần cảnh đã hết, sắc của tinh diệu được mật viên. Con do sắc tướng mà chứng A-la-hán. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng được của con, do sắc trần là hơn cả”.

GIẢNG GIẢI:

Ưu-ba-ni-sa-đà dịch là Trần Tánh, chỗ khác dịch là Cận Thiểu, do chỗ chứng mà được tên.

Ban đầu, Ngài quán về tướng sắc bất tịnh, kế quán sâu hơn về tướng xương trắng, phân tích thành những vi trần, thành từng hạt bụi nhỏ như những hạt phân tử. Rồi phân tích vi trần tan thành hư không, hết còn chỗ để tâm phân biệt. Đã tan về hư không rồi thì cả hai sắc và không cũng không luôn, tức không còn kẹt nơi sắc nơi không nữa. Ban đầu quán giống như còn có sự đối đãi, từ sắc quán thành không, sau sắc-không đều vượt qua nên tâm thanh tịnh sáng suốt, không còn bị sắc-không che ngại. Đến giai đoạn sắc trần hết, sắc của tinh diệu được mật viên, tức chuyển thành diệu sắc. Mật viên là sâu kín, tròn đầy.

Chỗ hết đây không phải là phá hoại cái có thành không, mà là sắc của trần cảnh hết thì sắc của tinh diệu được mật viên, là chuyển thành diệu sắc, không còn làm mê mờ tham đắm nữa. Tiêu hết tức nó không còn là đối tượng chướng ngại thì giống như tiêu. Nhưng không có nghĩa là phá hoại tướng thế gian, đừng hiểu nghĩa tiêu theo kiểu là từ có thành không, rồi cả thế gian này không còn gì hết. Hiểu như vậy là cái hiểu đoạn diệt. Đây có nhưng thấy suốt qua hết, không còn chướng ngại, nên tâm giải thoát thanh tịnh, thành chứng được A-la-hán.

Vậy từ thanh trần cũng vào đạo được, từ sắc trần cũng vào đạo được, đều do khéo quán đến tột cùng thì cũng được vào đạo.

 

CHÁNH VĂN:

Ông Hương Nghiêm Đồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật rằng: “Con nghe Đức Như Lai dạy, phải quán xét kỹ các tướng hữu vi. Khi ấy con từ giã Phật, đầu hôm đến ngồi yên lặng nơi nhà thanh trai, thấy các thầy Tỳ-kheo đốt trầm thủy hương, mùi thơm lặng lẽ bay vào trong mũi con. Con quán mùi thơm ấy không phải là gỗ, không phải là hư không, không phải là khói, không phải là lửa, đi ra không dính vào đâu, đến cũng không từ đâu, do đó mà ý niệm phân biệt tiêu diệt, phát minh tánh vô lậu. Như Lai ấn chứng cho con hiệu là Hương Nghiêm. Tướng hương tiền trần bỗng diệt, thì diệu tánh của hương là mật viên. Con do hương nghiêm mà chứng A-la-hán. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con hương nghiêm là hơn cả”.

GIẢNG GIẢI:

Ở đây, Ngài Hương Nghiêm quán về hương trần, cũng là một trong những tướng hữu vi nên đây mới nói là nghe Đức Như Lai dạy phải quán xét các tướng hữu vi. Do ngồi nơi nhà thanh trai, là nơi yên tĩnh vắng vẻ, gặp các thầy Tỳ-kheo đốt trầm thủy hương, là loại hương rất thơm.

Thường khi nghe mùi hương thì mọi người đều dính vào mùi hương, duyên theo mùi hương đó phân biệt hoặc thơm hoặc hôi, gọi là dính vào hương trần. Đây Ngài nhân mùi hương đó quán kỹ trở lại, tức không theo mùi hương rồi phân biệt, mà dùng mùi hương đó quán sát để vào đạo. Do quán mùi thơm này không phải là gỗ, vì gỗ thì đâu phải mùi thơm; rồi mùi thơm đâu phải là hư không, vì hư không trống rỗng; rồi mùi thơm cũng không phải là khói, vì khói đâu có mùi thơm; mùi thơm cũng không phải là lửa, lửa cũng đâu có mùi thơm!

Khi Ngài quán kỹ tìm không ra chỗ để chấp bám, tức không có cái thật thể. Còn chúng ta hễ nghe mùi thơm, liền tưởng mùi thơm là thật có, rồi duyên vào đó bị dính mắc, tham đắm, thành ra mắc kẹt. Nếu quán theo như trên thì đâu còn chỗ để bám mà phân biệt.

Nhờ Ngài quán kỹ nên thấu suốt qua mùi hương, tâm không còn chỗ sanh. Mà tâm không sanh thì trần tự tiêu, hết còn chỗ nào để tồn tại liền thành giải thoát. Là chuyển hương trần thành diệu hương, nó không còn làm ngăn ngại, cũng không còn đắm nhiễm.

Vậy, từ nơi hương trần cũng chứng được Vô học.

 

CHÁNH VĂN:

Hai vị Pháp Vương tử Dược Vương, Dược Thượng và 500 vị Phạm Thiên trong hội liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ dưới chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con từ kiếp vô thủy làm lương y thế gian, miệng thường nếm cỏ, cây, vàng, đá trong cõi Ta-bà này, số mục có đến mười vạn tám ngàn loại, biết hết các vị: đắng, chua, cay, mặn, lạt v.v... cùng với các vị biến đổi do các vị kia hòa hợp, cùng sanh ra thứ nào là nóng, thứ nào là lạnh, thứ nào là có độc, thứ nào là không độc, con đều biết cả. Vâng nghe lời dạy của Đức Như Lai rõ biết được bản tánh của vị trần, chẳng phải không, chẳng phải có, chẳng phải tức thân tâm, chẳng phải rời thân tâm, phân biệt đúng bản tánh của vị trần mà được khai ngộ. Nhờ Phật ấn chứng cho anh em chúng con hiệu là Bồ-tát Dược Vương, Dược Thượng. Nay ở trong hội làm vị Pháp Vương tử, chúng con nhân vị trần mà được giác ngộ sáng suốt lên bậc Bồ-tát. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con thì vị trần là hơn cả”.

GIẢNG GIẢI:

Đến đây hai vị Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Dược Thượng kể lại túc duyên về trước từng làm lương y ở thế gian, miệng nếm đủ hết các vị của thế gian đến mười vạn tám ngàn loại (108000 loại). Tuy nếm biết đủ hết các vị nhưng lại không bị các vị làm mê mờ. Chúng ta thì ngược lại, vừa nếm một hai vị là bị mê vì vị ngon vị dở, thành ra bị nó che ngại.

Hai Ngài vâng lời dạy của Đức Phật trình bày chỗ tu tập là quán rõ biết được bản tánh của vị trần nên không dính mắc. Bản tánh của vị trần là không phải không, không phải có. Nếm có vị thì đâu phải không, không thể nắm bắt được thì đâu phải có, cũng không phải tức thân tâm, không phải rời thân tâm mà riêng có. Quán kỹ như vậy nên đâu còn tâm tham đắm vào vị, nhờ vậy suốt qua vị trần tâm được sáng tỏ.

Đây là các Ngài nhân nơi vị trần được giác ngộ sáng suốt, lên bậc Bồ-tát. Chúng ta học pháp tu quán vị đây rồi, thì khi thọ trai phải khéo quán cho thấu suốt bản tánh của vị trần để được rỗng suốt, không tham đắm trong đó rồi bị nó che mờ.

Nhà thiền có câu chuyện Ngài Dược Sơn gạn hỏi Ngài Vân Nham. Một hôm, Ngài Dược Sơn hỏi Ngài Vân Nham:

- Ông ở đâu đến?

Vân Nham thưa:

 - Ở chỗ Bá Trượng đến.

Ngài Dược Sơn hỏi:

- Bá Trượng có ngôn cú gì chỉ dạy đồ chúng?

Vân Nham thưa:

- Thường ngày, Ngài từng nói rằng: “Ta có một câu đầy đủ trăm vị”.

Ngài Dược Sơn hỏi:

- Mặn là vị mặn, lạt là vị lạt, không mặn không lạt là vị thường. Vậy thế nào là một câu mà đầy đủ được trăm vị?

Vân Nham đáp không được.

Bị vị trần ngăn ngại rồi! Vậy làm sao thấu được một câu đầy đủ trăm vị? Ở đây, Ngài Dược Vương, Ngài Dược Thượng thì trong một câu còn đủ cả 108 ngàn vị, nói gì là trăm vị?

Đây dù cho bao nhiêu vị đi nữa, chỉ cần “rõ biết” là xong, nhưng chúng ta không sáng được chỗ này mà chỉ nhớ các vị trần nên bị các vị làm ngăn ngại. Sáng tỏ được chỗ “rõ biết” này là suốt cả 108 ngàn vị luôn. Cho nên đây chỉ cần khéo soi trở lại, chớ có nhớ theo các vị trần là bị ngăn ngại, dù cho suy nghĩ nát óc cũng không ra nổi. Đây là hai Ngài Dược Vương, Dược Thượng từ vị trần mà vào đạo.

 

CHÁNH VĂN:

Ông Bạt-đà-bà-la và 16 vị khai sĩ đồng bạn liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Trước kia nơi Phật Oai Âm Vương, chúng con do nghe pháp mà được xuất gia. Khi chư Tăng tắm gội, con theo thứ lớp vào nhà tắm, bỗng ngộ được chân tánh của nước, đã chẳng rửa bụi, cũng chẳng rửa thân, trong khoảng giữa yên lặng được không có gì. Do cái túc tập chẳng quên, cho đến hôm nay theo Phật xuất gia, mới thành được quả Vô học. Đức Phật ấy gọi tên con là Bạt-đà-bà-la do phát minh được diệu tánh của xúc trần mà thành bậc Phật tử trụ. Nay Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con thì nhân xúc trần là hơn cả”.

GIẢNG GIẢI:

Bạt-đà-bà-la có chỗ dịch là Thượng Thủ. Bạt-đà-bà-la cùng với 16 khai sĩ đồng bạn thuật lại nhân duyên trước kia của mình là từ thời Phật Oai Âm Vương. Mới thấy các Ngài tu do chủng tử và duyên lành từ nhiều đời nhiều kiếp chứ không phải mới một đời mà có được.

Ở đây, Ngài Trường Thủy có giải thích, theo kinh Pháp Hoa chép từ thời Phật Oai Âm Vương có hai vạn ức Đức Phật Oai Âm Vương liên tục ra đời. Khi Đức Phật Oai Âm Vương trước nhập diệt rồi qua đến thời tượng pháp thì vị này xuất gia, nhưng là vị Tỳ-kheo tăng thượng mạn hủy nhục Bồ-tát Thường Bất Khinh.

Bồ-tát Thường Bất Khinh đi đâu cũng xá xá nói: “Tôi không dám khinh quý Ngài, quý Ngài đều sẽ thành Phật”. Vị Bạt-đà-bà-la này cũng là một trong những vị Tỳ-kheo thời đó, thấy Bồ-tát Thường Bất Khinh làm vậy, sanh tâm sân giận lấy đá ném hoặc dùng lời chê bai. Sau đó phải đọa địa ngục trải qua nhiều kiếp, khi tội hết, ra khỏi địa ngục gặp Đức Phật Oai Âm Vương sau cùng mới xuất gia và ngộ đạo.

Trong kinh Pháp Hoa nói rõ là liên tục mấy ngàn vạn ức Đức Phật ra đời, đây là Đức Phật Oai Âm Vương sau cùng. Như vậy, Ngài gặp Đức Phật Oai Âm Vương sau cùng xuất gia được ngộ đạo. Còn 16 vị khai sĩ theo Ngài là người mới phát tâm, gọi là đồng bạn của Ngài Bạt-đà-bà-la.

Ngài thuật là khi theo thứ lớp vào nhà tắm mới ngộ được chân tánh của nước không phải rửa bụi, không phải rửa thân, khoảng giữa nó là yên lặng không có gì hết, không có gì để được, tức là thấu qua xúc trần, không bị nó làm mê mờ. Tuy tắm xối nước nhưng mà quán thấu như vậy thì đâu có mê, còn chúng ta khi tắm chỉ nghe mát lạnh hoặc ấm thành ra bị xúc trần che mờ, rồi tham hoặc là sân khởi. Nếu mát ấm dễ chịu thì thích, còn nếu lạnh quá không thích liền bực bội, khó chịu nên bị xúc trần làm mê.

Để cho thấy, ngay xúc trần đó mà tâm vẫn sáng tỏ, hay là ở trong nhà tắm mà cũng có Phật pháp, đâu phải tìm Phật pháp đâu xa. Cho nên người biết tu thấy Phật pháp hiện khắp nơi, còn không biết tu thì nhiều khi lên đến Thiền đường mà tâm vẫn rối loạn, phiền não, không thấy Phật pháp.

Trong nhà thiền có câu chuyện bà Ni sư Trí Thông, tu thiền ngộ đạo. Bà làm nhà tắm rồi treo cái bảng ở ngoài cửa nhà tắm báo là ai vào nhà tắm phải quán câu này thì vào tắm mới được: “Một vật cũng không rửa cái gì, mảy trần nếu có từ đâu khởi. Nói lấy một câu tử huyền (một câu thông suốt có ý nghĩa) mới có thể đồng vào nhà tắm. Cổ Linh chỉ biết kỳ lưng, Khai sĩ đâu từng sáng tâm. Muốn chứng quả Ly cấu địa, phải là toàn thân toát mồ hôi. Trọn nói nước hay rửa bụi nhơ, đâu biết rằng nước cũng là bụi. Dù cho nước và nhơ chóng trừ, đến đây cũng phải rửa sạch”.

Vào nhà tắm nhìn cái bảng, quán như vậy thì tắm đâu có mê, đâu còn nhớ xúc trần.

Một vật cũng không rửa cái gì? Chúng ta thấy có da thịt, có thân này thật, có ta đây thật, mới có sạch nhơ, rồi mới có tắm nó. Nhưng nếu xét tột nguồn của nó thì vốn là xưa nay không một vật, vậy tắm cái gì đây?

Mảy trần nếu có từ đâu khởi? Nếu thật sự một mảy trần có được thì từ đâu nó có? Quán kỹ vậy xem. Rồi làm sao nói lấy được một câu cho có ý nghĩa, một câu thông suốt thì mới có thể vào nhà tắm? Còn nói không được thì thôi đừng tắm. Tắm như vậy đúng là đâu có mê được.

Cổ Linh chỉ biết kỳ lưng, Cổ Linh tức Ngài Cổ Linh - Thần Tán, Ngài kỳ lưng cho ông thầy rồi thức tỉnh ông thầy: “Điện Phật đẹp mà Phật không Thánh...”.

Khai sĩ đâu từng sáng tâm, khai sĩ tức 16 vị khai sĩ trong kinh này kể. Muốn chứng quả Ly cấu địa, phải là toàn thân toát mồ hôi mới được, là không thể nói suông, hiểu suông ngoài miệng được.

Trọn nói nước hay rửa bụi nhơ, đâu biết rằng nước cũng là bụi, thường cho nước hay rửa trần, nhưng đâu biết rằng nước cũng thuộc về sắc trần, rồi bụi trên thân mình cũng là trần, đem trần rửa trần, vậy cái nào rửa cái nào?

Cuối cùng dù cho nước và bụi nhơ chóng trừ, đến chỗ này cũng phải rửa sạch. Nghĩa là rốt ráo cũng phải vượt qua chỗ trừ đó luôn, rỗng suốt, sáng tỏ được tự tâm.

Chỗ này thì nước làm sao rửa đến được! Xúc trần cũng không xúc đến được chỗ này! Thấy được chỗ này mới gọi là thấu suốt được chân tánh. Tắm như vậy thì lúc nào cũng sáng suốt, không mê. Đây là từ xúc trần mà vào đạo.

 

CHÁNH VĂN:

Ông Ma-ha Ca-diếp và bà Tỳ-kheo-ni Tử Kim Quang v.v... liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Ở kiếp xa xưa trong cõi này có Đức Phật ra đời hiệu là Nhật Nguyệt Đăng, con được gần gũi nghe pháp tu học. Sau khi Phật diệt độ con thắp đèn sáng mãi cúng dường Xá Lợi và dùng vàng thắm thếp hình tượng Phật. Từ đó đến nay sanh ra trong mỗi đời thân thể thường viên mãn sáng chói như vàng thắm. Tỳ-kheo-ni Tử Kim Quang v.v... này là quyến thuộc của con lúc đó, cũng đồng thời phát tâm như con.

Con do quán sát sáu trần ở thế gian đều biến hoại, chỉ dùng pháp không tịch, tu định Diệt tận, thân tâm có thể trải qua trăm ngàn kiếp cũng như khảy móng tay. Con quán các pháp là rỗng không mà thành quả A-la-hán. Đức Thế Tôn nói con tu hạnh đầu-đà bậc nhất. Diệu tánh của các pháp được tỏa sáng thì tiêu diệt các lậu. Nay Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con thì do pháp trần là hơn cả”.

GIẢNG GIẢI:

Ngài Ma-ha Ca-diếp thuật lại duyên xưa từ Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng được gần gũi nghe pháp, sau khi Phật diệt độ mới thắp đèn sáng cúng dường Xá-lợi, dùng vàng thếp tượng Phật nên quả báo hiện tại được thân tướng sắc vàng.

Về chỗ tu, do Ngài quán sáu trần đều biến hoại, mà căn bản do thấu suốt pháp trần mà chứng viên thông. Bởi vì pháp trần cũng từ năm trần mà tạm có, pháp trần là bóng của năm tiền trần còn đọng lại. Vậy quán kỹ thì năm trần đều là tướng biến hoại, không có thật thể tồn tại. Gốc năm trần không thật rồi thì pháp trần cũng không thật, vốn là không tịch.

Pháp trần lại là chỗ duyên của ý, mà không tịch rỗng lặng vậy ý duyên vào cái gì? Thành ra ý không có chỗ bám, ngay đó nhập định Diệt tận thành tựu quả A-la-hán. Tức rỗng suốt qua pháp trần, sạch hết các lậu, mà chứng được viên thông. Do chứng định Diệt tận cho nên thân tâm trải qua trăm ngàn kiếp dường như khảy móng tay vậy thôi. Bởi vì ý đâu còn có pháp trần làm đối tượng để duyên nữa, không chỗ đối tượng để duyên thì đâu còn phân biệt lâu mau, nên vượt qua cả thời gian.

Trên đây là sáu vị đều từ sáu trần mà chuyển lại cởi mở hết những ràng buộc, thành giải thoát. Gọi là ngay nơi sáu trần mà phát minh ra diệu tánh của các trần, hết mê theo trần mà trở về nguồn chân.

Nhà thiền cũng có câu chuyện ông tăng hỏi Thiền sư Hồng Chẩn:

- Khi vạch trần thấy Phật thì thế nào?

Thiền sư Hồng Chẩn đáp:

- Phật cũng là trần.

Chúng ta quán cho kỹ, thấu suốt được chỗ này thì các trần hết còn làm ngại. Nghĩa là sao? Ông hỏi là vạch các trần mà thấy Phật thì Ngài nói Phật cũng là trần. Bởi vì thấy Phật thì Phật là tướng bị thấy, mà tướng bị thấy tức là sắc trần, thì Phật cũng là trần chứ gì.

Nếu thấy được vậy thì đâu còn bị trần làm mê, đã thấy Phật cũng là trần tức là không lầm theo tướng bị thấy đó nữa, mà nhớ trở lại cái sáng suốt nơi mình đây, như vậy mới là thấy Phật, là chuyển trở về nguồn. Còn mê theo tướng đó tức là theo trần, là quên Phật thật.

Đây qua tới sáu căn.

 

CHÁNH VĂN:

Ông A-na-luật mới từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật rằng: “Khi con mới xuất gia thường ưa ngủ nghỉ, nên Như Lai quở con là loài súc sanh, nghe Phật quở con liền khóc lóc tự trách, thức suốt bảy ngày không ngủ, hư cả hai con mắt. Thế Tôn dạy con tu pháp “Nhạo Kiến Chiếu Minh Kim Cang Tam-muội”. Con không do con mắt mà thấy khắp cả mười phương, rỗng suốt tinh tường, như xem trái cây để trong lòng bàn tay. Như Lai ấn chứng cho con thành quả A-la-hán. Nay Phật hỏi về viên thông, theo chỗ chứng của con, xoay cái thấy trở về bản tánh là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

A-na-luật dịch là Vô Bần, xưa Ngài có túc duyên lành nên đời nay được quả không nghèo. Khi xuất gia theo Phật cũng còn tập khí buồn ngủ, như một hôm, ngồi nghe Phật thuyết pháp mà ngủ gật, Phật mới nói bài kệ quở: “Như loài súc sanh, loài trai, loài sò (trai, sò thích ngủ, nó khép hai cái vỏ lại nằm ngủ) ngủ, ngủ như vậy cả ngàn năm không được nghe Phật pháp”.

Ngài A-na-luật nghe quở mới giật mình, quá hổ thẹn. Sau đó, Ngài khóc lóc tự trách, rồi phát tâm tinh tấn không ngủ suốt cả tuần nên mới hư hai con mắt. Sau đó được Phật chỉ dạy xoay cái thấy trở về bản tánh mà thành giải thoát. Tức xoay cái thấy lại, không thấy theo sắc trần, không dính vào nhãn căn mà xoay trở về bản tánh nên chứng giải thoát, thành bậc thiên nhãn bậc nhất trong hàng Thanh Văn. Vậy là chuyển cái thấy vượt khỏi nhãn căn, không nhờ nhãn căn mà vẫn thấy. Đây là từ nhãn căn mà được vào đạo.

Trong nhà thiền, các Thiền sư cũng thường lợi dụng căn mắt này để khai thị cho người học, như giơ phất tử, giơ ngón tay v.v...

Ở đây Ngài A-na-luật hư hai con mắt nhưng  được thiên nhãn, thấy suốt cõi Tam thiên đại thiên, không nhờ con mắt mà vẫn thấy khắp mười phương, để chứng thực cái thấy không phải chỉ có ở con mắt.

Tiếp theo là phần tỷ căn, còn nhĩ căn của Ngài Quán Tự Tại sẽ học ở sau.

 

CHÁNH VĂN:

Ông Châu-lợi-bàn-đặc-ca liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Do con thiếu trì tụng, không có tuệ đa văn, ban đầu được gặp Phật nghe pháp xuất gia, con cố nhớ một câu kệ của Như Lai, song trong một trăm ngày hễ nhớ trước thì quên sau, nhớ sau thì quên trước. Phật thương xót con ngu muội mới dạy con pháp an cư điều hòa hơi thở ra vào. Khi con quán hơi thở cùng tột các tướng sanh, trụ, dị, diệt nhỏ nhiệm từng sát-na; tâm con rỗng suốt được đại vô ngại; cho đến hết các lậu thành quả A-la-hán, ở dưới tòa của Phật, được Phật ấn chứng thành quả Vô học. Nay Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con xoay hơi thở trở về tánh không là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

Châu-lợi-bàn-đặc-ca dịch là Tiểu Lộ Biên, em Ngài Châu-lợi, hai anh em sanh ở bên đường cho nên gọi là Đại Lộ Biên và Tiểu Lộ Biên. Do những đời trước kia làm pháp sư nhưng lại bỏn xẻn Phật pháp, không chịu nói cho người nên mắc phải quả báo ngu độn, học mãi một bài kệ mà không thuộc, học câu trước là quên câu sau. Nhưng được Phật thương xót phương tiện chỉ dạy quán hơi thở mà tâm được rỗng suốt. Để thấy rằng tuy là ngu độn nhưng được Phật chỉ dạy rồi khéo tu tập thì cũng chứng quả A-la-hán.

Khi Ngài được Phật chỉ dạy pháp quán hơi thở, đây không phải chỉ quán hơi thở vô ra bình thường, mà quán sâu đến cùng tột thấy tướng nhỏ nhiệm của nó vi tế trong từng sát-na sanh diệt. Như vậy, thấy sanh diệt rồi không phải dừng trong cái sanh diệt mà để không bám vào đó, nên sau dần dần tâm rỗng suốt vô ngại, sạch hết các lậu. Cho thấy pháp quán hơi thở không phải tầm thường, nhưng nhiều người hiểu lầm cho pháp quán hơi thở là pháp sơ cơ cho mấy người mới vào đạo tập quán, đó là cái hiểu lệch lạc, sai lầm.

Quán hơi thở là pháp rất là thiết thực, gần gũi với mọi người trong mọi lúc, lúc nào cũng có mặt với chúng ta hết. Quán hơi thở khiến cho tâm người tập trung theo hơi thở thì không có duyên ra ngoài. Bước đầu dừng tâm tán loạn, sau khi tâm yên rồi mới xét sâu tướng sanh diệt vi tế cho đến các tướng nhỏ nhiệm của hơi thở trong từng sát-na, chỗ này dù có suy nghĩ cũng không thể bắt kịp. Cuối cùng tâm rỗng suốt thành tựu được giải thoát. Đó là Ngài Châu-lợi-bàn-đặc từ nơi tỷ căn mà chứng viên thông.

 

CHÁNH VĂN:

Ông Kiều-phạm-bát-đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con mắc khẩu nghiệp thuở quá khứ, khinh rẻ chế giễu các vị Sa-môn, nên nhiều đời sanh ra có bệnh lưỡi giống như lưỡi trâu. Đức Như Lai dạy con tu pháp môn “Nhất Vị Thanh Tịnh Tâm Địa”. Nhờ đó mà con diệt được phân biệt vào Tam-ma-địa, quán cái biết vị chẳng phải thân thể, chẳng phải ngoại vật, liền đó được vượt khỏi các lậu trong thế gian, bên trong giải thoát thân tâm, bên ngoài vượt khỏi thế giới. Xa lìa ba cõi, như chim ra khỏi lồng, lìa hết cấu nhiễm tiêu diệt trần tướng, nên pháp nhãn được thanh tịnh, thành quả A-la-hán, Đức Như Lai ấn chứng cho con lên bậc Vô học. Nay Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con xoay các vị trở về tánh biết, đây là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

Kiều-phạm-bát-đề, dịch là Ngưu Ty, vì thời quá khứ khinh rẻ chế giễu các vị Sa-môn, nên bị quả báo của khẩu nghiệp sanh ra lưỡi giống như lưỡi trâu, ăn rồi thường nhơi lại. Được Phật chỉ dạy pháp môn tu quán “Nhất Vị Thanh Tịnh Tâm Địa”, tức là quán thấu cái biết vị, suốt qua thân thể và ngoại vật, thấu qua căn và trần.

Ở đây, Ngài quán cái biết vị chẳng phải là thân thể, thân thể là tứ đại đâu có biết, cũng chẳng phải ngoại vật, vật bên ngoài thì đâu biết vị, nên vượt khỏi các lậu trong thế gian, bên trong thì giải thoát thân tâm, bên ngoài vượt khỏi thế giới. Vậy là thấu qua căn trần, vượt lên cả cái lưỡi và vị trần, rồi trần tướng tiêu không còn làm nhiễm và che ngại, thành tựu giải thoát.

Như vậy, từ nơi thiệt căn mà không đồng hóa với thiệt căn, xoay ngược trở về nguồn chân. Đó là từ thiệt căn mà chứng viên thông.

 

CHÁNH VĂN:

Ông Tất-lăng-già-bà-ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con khi mới phát tâm theo Phật vào đạo thường nghe Đức Như Lai dạy về những việc không vui trong thế gian. Lúc đi khất thực trong thành tâm con suy nghĩ pháp môn Phật dạy, giữa đường bất ngờ bị gai độc đâm vào chân, toàn thân đều đau nhức. Con tâm niệm: Con có cái biết, biết được cái đau nhức ấy, tuy biết được cái biết đau nhức, nhưng đồng thời giác biết nơi tâm thanh tịnh không có cái đau và cái biết đau. Con lại suy nghĩ: “Một thân thể này đâu thể có hai tánh biết”. Nhiếp niệm chưa bao lâu thân tâm bỗng nhiên không tịch. Trải qua hai mươi mốt ngày, các lậu đều sạch hết, thành quả A-la-hán, được Phật ấn chứng lên bậc Vô học. Nay Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thuần một tánh biết rời nơi thân thể là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

Tất-lăng-già-bà-ta dịch là Dư Tập, tức là còn dư tập của 500 đời làm Bà-la-môn. Ở đây, Ngài Tất-lăng-già-bà-ta nhân bị gai độc đâm vào chân, thân có cảm giác đau nhức từ đó mà quán rồi vào đạo. Học thấy các Ngài tu chứng A-la-hán nghe sao dễ dàng, chỉ gai đâm vào chân rồi tu quán là chứng A-la-hán, nhưng đâu biết rằng các Ngài đã tu tập kỹ từ trước rồi.

Chúng ta vì tu hời hợt, không thường xuyên kỹ lưỡng, do đó nếu gặp chuyện là chỉ nhớ phiền não chớ đâu có nhớ pháp tu. Gặp gai đâm chân đau thì phiền não sanh, giận trách người. Đôi khi nhân cái đau đó xin khỏi ngồi thiền, xét lại mình mới thấy hổ thẹn.

Còn các Ngài lúc nào cũng nhớ pháp rồi tu tập, nên khi bị gai đâm chân ngay đó nhớ quán chiếu liền, không để cho niệm khác chen vào thành phiền não. Thành ra nhân cái đau quán trở lại để không theo cái đau nhức, mà nghĩ nhớ có cái giác biết đau nhức, rồi lại có cái giác biết trở lại tâm thanh tịnh; tức cái không có đau và cái biết đau. Từ đó xét sâu hơn, là trong một thân làm sao lại có hai cái tánh biết được? Một thân có hai tánh biết thành ra hai người sao? Cứ quán sâu, quán sâu như vậy thì dần dần tâm lặng lẽ quên theo cái đau. Do quán ngược trở lại, không có đồng hóa với cái đau nữa, cho nên tâm lặng lẽ vượt qua khỏi cái đau, thuần trở lại tánh biết nguyên vẹn không trộn lẫn với cái đau, tâm rỗng lặng, sạch lậu thành giải thoát.

Trong nhà thiền, Ngài Vân Môn đến gặp Ngài Trần Tôn Túc rồi bị đóng cửa dập bàn chân bị đau, cũng ngộ đạo. Đây là từ thân căn mà vào đạo.

 

CHÁNH VĂN:

Ông Tu-bồ-đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Từ nhiều kiếp đến nay tâm con được vô ngại, tự nhớ thọ sanh nhiều đời như cát sông Hằng. Khi còn trong thai mẹ đã biết tánh không tịch, như thế cho đến mười phương đều thành rỗng không và cũng khiến cho chúng sanh chứng được tánh không. Nhờ Đức Như Lai chỉ dạy con phát minh được tánh giác chân không, tánh không được viên mãn sáng suốt chứng quả A-la-hán, liền vào Bảo minh không hải của Như Lai, tri kiến đồng như Phật, được Phật ấn chứng cho con thành quả Vô học, tánh giải thoát rỗng không, con là trên hết.

GIẢNG GIẢI:

Tu-bồ-đề dịch là Không Sanh. Duyên của Ngài là từ nhiều kiếp đến nay tâm được vô ngại, tự nhớ thọ sanh nhiều đời như số cát sông Hằng, ở trong thai mẹ đã biết tánh không tịch. Căn cơ của các Ngài thật sâu dày đến thế! Rồi phát minh tánh giác chân không tức là không mà chân, chớ không phải cái không đối với cái có. Rồi tánh không được viên mãn sáng suốt, nhập vào Bảo minh không hải của Như Lai, là biển không sáng suốt quý báu của Như Lai. Tri kiến đồng như Phật, đây là vượt hẳn cả Nhị thừa. Ngài được chứng thành Vô học, chỗ chứng của Ngài gọi là tánh giải thoát rỗng không là trên hết.

Đây Ngài mới thuật lại thêm chỗ chứng:

 

CHÁNH VĂN:

Nay Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, các tướng đều vào tướng phi. Năng phi, sở phi đều hết, xoay pháp trở về không là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

Các tướng đều vào tướng phi tức là vượt qua tướng, rồi năng phi sở phi đều hết là sạch cả tướng năng sở, vượt qua cả có không, ý căn hết chỗ bám. Như vậy, Ngài Tu-bồ-đề do từ nơi ý căn mà chứng viên thông.

 

CHÁNH VĂN:

Ông Xá-lợi-phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Từ nhiều kiếp đến nay tâm thấy của con được thanh tịnh. Tuy con thọ sanh nhiều đời như số cát sông Hằng như vậy mà đối với các pháp biến hóa nơi thế gian và xuất thế gian, một phen thấy liền thông suốt không chướng ngại.

Con ở giữa đường gặp anh em ông Ca-diếp-ba cùng đi và tuyên nói pháp nhân duyên, con ngộ được tâm không bờ mé.

 Con theo Phật xuất gia, chỗ nhận thấy sáng suốt viên mãn, được pháp đại vô úy thành quả A-la-hán, làm trưởng tử của Phật, do miệng Phật mà sanh ra, do pháp của Phật mà hóa sanh. Nay Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con thì tâm thấy phát sáng, sáng cùng tột các tri kiến, đó là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

Đây Ngài Xá-lợi-phất từ tâm thấy xoay trở lại mà vào đạo. Tâm thấy tức nhãn thức, cái biết phân biệt nơi con mắt, gọi là tâm thấy. Ngài nói tuy thọ sanh nhiều đời như số cát sông Hằng, nhưng đối với các pháp biến hóa ở thế gian xuất thế gian, một phen thấy liền thông suốt không chướng ngại. Tức là nhãn thức Ngài sáng suốt bén nhạy. Theo Ngài Hàm Thị giải, tuy thấy thông suốt không chướng ngại nhưng đó thuộc về danh tướng thế gian, không phải chân thật đạt được pháp xuất thế. Và chỗ đã ngộ được tâm không bờ mé mới là Kiến đế.

Đây nói Ngài gặp ba anh em ông Ca-diếp-ba, nhưng nhiều chỗ nói Ngài gặp Ngài A-thuyết-thị, là một trong năm anh em ông Kiều-trần-như nói bài kệ nhân duyên. Bài kệ nhân duyên này do nhiều kinh thuật lại nên cũng có sai biệt chút ít:

       Chư pháp tùng duyên sanh,

       Chư pháp tùng duyên diệt.

       Như thị diệt dữ sanh,

       Ngã sư như thị thuyết.

Tức:

       Các pháp từ duyên sanh,

       Các pháp theo duyên diệt.

       Như thế diệt và sanh,

       Thầy tôi nói như thế.

Có kinh ghi:

       Chư pháp tùng duyên sanh,

       Diệc phục tùng duyên diệt.

       Ngã Phật đại Sa-môn

       Thường tác như thị thuyết.

Dịch:

       Các pháp từ duyên sanh,

       Cũng lại từ duyên diệt.

       Thầy tôi, Đại Sa-môn,

       Từng dạy như thế đó.

Các pháp từ duyên sanh và cũng từ duyên diệt, thì sanh cũng là duyên sanh, diệt cũng là duyên diệt, trong đó không thật có tự ngã sanh diệt. Nếu quán kỹ, quán sâu như vậy thì ngay đó chứng Vô sanh, thấu suốt vô ngã thôi.

Ngài Xá-lợi-phất nghe rồi ngộ tâm không bờ mé, là Kiến đế, mới theo Phật xuất gia, chỗ nhận thấy sáng suốt viên mãn nên được chứng A-la-hán. Ngài nói là do miệng Phật sanh ra, do pháp của Phật mà hóa sanh, là gần gũi thân thiết từ Phật mà ra, là trưởng tử của Phật. Chỗ chứng của Ngài là tâm thấy phát sáng, sáng đến cùng tột các tri kiến. Tức là thấy biết cái gì cũng sáng suốt không mê. Đó là từ nhãn thức mà chứng viên thông.

 

CHÁNH VĂN:

Bồ-tát Phổ Hiền liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con đã từng làm Pháp Vương tử của các Đức Như Lai như số cát sông Hằng. Mười phương Như Lai dạy các đệ tử có căn cơ Bồ-tát tu hạnh Phổ Hiền, hạnh đó do con mà đặt tên.

Bạch Thế Tôn! Con dùng tâm nghe phân biệt những tri kiến của chúng sanh đã có. Nếu ở phương khác cách ngoài thế giới như số cát sông Hằng, có một chúng sanh nào trong tâm phát được hạnh Phổ Hiền, thì liền trong khi ấy con phân thân trăm ngàn, cỡi voi sáu ngà đến chỗ người đó. Dầu người ấy nghiệp chướng sâu nặng chưa được thấy con, con cũng thầm kín xoa đảnh đầu người ấy, ủng hộ an ủi, khiến họ được thành tựu. Nay Phật hỏi về viên thông, con nói chỗ bản nhân của con do tâm nghe phát sáng, phân biệt tự tại, đó là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

Phổ Hiền nghĩa là hạnh nguyện rộng độ chúng sanh khắp pháp giới không cùng tận. Hạnh Phổ Hiền có ba giai vị:

- Thứ nhất là vị tiền Phổ Hiền, gồm hai vị Tư Lương và Gia Hạnh, thuộc về địa tiền đứng trước Thập địa.

- Thứ hai là đương vị Phổ Hiền, tức là Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác.

- Thứ ba là vị hậu Phổ Hiền, tức là đã chứng quả rồi nhưng về sau không xả bỏ nhân môn, không bỏ bi nguyện độ sanh, chỉ nghĩ đến việc cứu độ chúng sanh.

Đây Bồ-tát Phổ Hiền là vị đại Bồ-tát từng làm Pháp Vương tử cho các Đức Phật nhiều như số cát số Hằng, thì mới biết hạnh nguyện của Ngài rộng lớn như thế nào! Ngài nói: “Nếu chúng sanh nào ở các phương khác cách ngoài thế giới như số cát sông Hằng hễ trong tâm phát được hạnh Phổ Hiền thì Ngài liền phân thân cỡi voi sáu ngà đến chỗ người đó”. Đúng là ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Qua đó cho thấy, tâm các Ngài rộng lớn vô ngại, không có gì làm chướng được hết. Nếu ai tu hạnh Phổ Hiền viên mãn thành Phật, tâm cũng đầy đủ những diệu dụng như vậy, còn chúng ta bị hạn cuộc trong cái ngã này cho nên sống rất hạn hẹp, vậy mà còn tự hào!

Đây Ngài Phổ Hiền do tâm nghe phát sáng, phân biệt tự tại không kẹt nơi căn thức, rồi dùng cái tâm nghe đó mà phân biệt khắp các tri kiến của chúng sanh không chướng ngại, gọi là suốt cả xa gần. Đây là từ nhĩ thức mà chứng viên thông.

 

CHÁNH VĂN:

Ông Tôn-đà-la Nan-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con khi mới xuất gia theo Phật vào đạo, tuy giữ đủ giới luật, nhưng lúc tu Tam-ma-địa, tâm thường tán loạn, chưa được quả Vô lậu. Đức Phật dạy con và ông Câu-hy-la quán tướng trắng ở chót mũi. Khi con bắt đầu tu quán ấy, trải qua hai mươi mốt ngày thấy hơi thở trong mũi ra vào như khói, thân tâm bên trong sáng soi thông suốt cả thế giới, khắp nơi thành trống không thanh tịnh như ngọc lưu ly. Tướng khói lần lần tiêu hết, hơi thở hóa thành sắc trắng, đến khi tâm được khai ngộ các lậu hết sạch; các hơi thở ra vào hóa thành hào quang soi khắp mười phương thế giới, được quả A-la-hán. Thế Tôn thọ ký cho con sẽ được quả Bồ-đề. Nay Phật hỏi về viên thông, con dùng pháp nhiếp thu ý niệm nơi hơi thở, yên lặng lâu ngày phát ra sáng suốt, sáng suốt viên mãn, diệt hết các lậu, đó là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

Trong sách sử ghi có nhiều Ngài trùng tên Nan-đà nên ở đây mới gọi thêm tên Tôn-đà-la Nan-đà để phân biệt. Tôn-đà-la là tên vợ Ngài lúc chưa xuất gia, ghép chung với tên của Ngài để phân biệt với vị Phóng-ngưu Nan-đà.

Ngài nhiếp tâm quán tướng trắng ở chót mũi, trụ tâm nơi chót mũi, khi tâm yên định rồi mới thấy hơi thở ra vào giống như khói. Dần dần khi được thanh tịnh thì Ngài thấy hơi khói suốt cả trong ngoài, thế giới giống như ngọc lưu ly; cho đến khói tiêu hóa thành sắc trắng, thành hào quang.

Tâm sáng liền chuyển cái thấy thành sáng, đó là do tâm thanh tịnh mà thấy chớ không phải hơi thở hóa thành hào quang. Tức là tâm chuyên chú được thanh tịnh, nên tâm sáng rồi thấy cảnh sáng, cũng không ngoài tâm riêng có. Khi tâm sáng tỏ thì hơi thở tiêu hóa thành hào quang soi khắp cả mười phương, sạch hết những chướng ngại, các lậu không còn, được giải thoát. Đó là từ nơi tỷ thức mà chứng viên thông.

 

CHÁNH VĂN:

Ông Phú-lâu-na Di-đa-la-ni-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con từ nhiều kiếp đến nay tài biện thuyết được vô ngại, tuyên dương các pháp khổ-không, thấu suốt tướng chân thật.

Như thế cho đến các pháp môn bí mật của hằng sa các Đức Như Lai, con ở trong chúng khéo léo chỉ bày không chút sợ sệt. Đức Thế Tôn biết con có tài biện thuyết lớn lao nên dùng pháp luân âm thanh dạy con tuyên dương chánh pháp. Con ở trước Phật, giúp Phật chuyển pháp luân. Nhân tiếng sư tử rống mà thành quả A-la-hán. Đức Thế Tôn ấn chứng cho con nói pháp hơn cả. Nay Phật hỏi về viên thông, con dùng pháp âm hàng phục tà ma ngoại đạo, tiêu diệt các lậu, đó là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

Ngài Phú-lâu-na có tài biện thuyết nên thuyết pháp không sợ sệt, thường trợ Phật giáo hóa chuyển pháp luân. Ở đây, Ngài nói là tuyên dương các pháp khổ-không mà thấu suốt tướng chân thật. Pháp khổ-không thuộc về Nhị thừa, Ngài phương tiện nói pháp vô thường, khổ, không nhưng ngầm chỉ pháp chân thường hay pháp chân thật thường, lạc, ngã, tịnh cho nên gọi là khéo dùng phương tiện.

Ngài Phú-lâu-na khéo dùng các âm thanh để hàng phục chúng ma, tiêu diệt các lậu mà thành giải thoát, tâm biết nơi thiệt thức thật sáng tỏ. Ma đây không phải chỉ là ma quỷ bên ngoài, mà nói đủ là tứ ma. Nhờ diệt sạch tứ ma, Ngài giải thoát thành A-la-hán. Nếu chỉ tiêu diệt ma bên ngoài thôi thì chưa đủ, chúng ta cần phải hiểu cho kỹ.

Đây là Ngài từ thiệt thức mà chứng viên thông, nhưng thiệt thức này nhắm vào thuyết pháp. Bởi thiệt căn có hai phần: phần thuyết pháp, phần nếm vị. Do đó, chúng ta thấy từ thiệt thức cũng có thể chứng viên thông.

 

CHÁNH VĂN:

Ông Ưu-ba-ly liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, mà bạch Phật rằng: “Chính con được theo Phật vượt thành xuất gia, xem thấy Như Lai sáu năm siêng tu khổ hạnh, thấy Đức Như Lai hàng phục các bọn tà ma, đối trị các ngoại đạo, giải thoát các lậu tham dục trong thế gian. Con được nhờ Phật dạy giữ giới như thế cho đến ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh; tánh nghiệp, giá nghiệp thảy đều thanh tịnh. Do đó thân tâm được tịch diệt thành quả A-la-hán; nay con làm người cương kỹ trong chúng của Như Lai, Phật ấn chứng cho con giữ giới tu thân hơn cả trong chúng.

Nay Phật hỏi về viên thông, con do giữ gìn nơi thân mà thân được tự tại, kế gìn giữ nơi tâm mà tâm được thông suốt, về sau thân tâm tất cả đều thông suốt, đó là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

Đây Ngài Ưu-ba-ly thưa là Ngài theo Phật vượt thành xuất gia, nhưng các sử ghi là Ngài Sa-nặc đi theo. Lúc Phật về thăm thành Ca-tỳ-la-vệ, các vị vương tử theo Phật xuất gia mới dẫn Ngài Ưu-ba-ly là thợ cạo tóc đi theo. Khi đó, Ngài thấy các vương tử kia là con vua chúa mà bỏ tất cả sang giàu đi tu, còn mình là anh cạo tóc còn tiếc gì thế gian nữa. Bấy giờ, Ngài chạy trở lại xin các vương tử dẫn Ngài theo xuất gia luôn. Đến lúc xuất gia, các vị kia mới thưa với Phật xin cho Ngài được thọ giới trước tiên. Các vị là con vua cháu chúa nên muốn ngăn dẹp tâm kiêu mạn, sẵn sàng nhường cho Ngài cạo tóc ngồi trước.

Ngài xuất gia rồi lại chuyên về giữ giới, ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, tánh nghiệp, giá nghiệp đều thanh tịnh, thông suốt hết. Giới lớn, giới nhỏ, tất cả bốn oai nghi lúc nào Ngài cũng giữ rất kỹ. Trong tất cả các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi tâm nhận biết rõ ràng, không để sơ suất. Nên đây gọi là từ thân thức mà chứng viên thông.

Thân thức tức tâm nhận biết nơi thân, mọi cử chỉ oai nghi hành động đều nhận biết rõ ràng, không để nó sanh tội lỗi. Cuối cùng thân tâm thanh tịnh, đạt được tự tại thông suốt, thành giải thoát. Như vậy, giữ giới đây không phải chỉ giữ trên thân, mà cũng là giữ cái tâm. Cho nên, Ngài nói: “Con do giữ gìn nơi thân mà thân được tự tại, kế giữ gìn nơi tâm mà tâm được thông suốt, sau là thân tâm tất cả đều thông suốt”.

 

CHÁNH VĂN:

Ông Đại Mục-kiền-liên, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Lúc trước con khất thực giữa đường, gặp ba anh em ông Ca-diếp-ba là ông Ưu-lâu-tần-loa, ông Già-da, ông Na-đề giảng nói nghĩa lý nhân duyên sâu xa của Như Lai, con liền phát tâm được thông suốt. Đức Như Lai ban cho con áo ca-sa đắp trên mình, râu tóc tự rụng. Con đi khắp mười phương được không ngăn ngại, phát sáng thần thông, được trong chúng suy tôn là vô thượng, thành quả A-la-hán. Không những riêng Đức Thế Tôn, mà mười phương Như Lai đều khen sức thần thông của con thanh tịnh tròn sáng tự tại không sợ sệt.

Nay Phật hỏi về viên thông, do con xoay ý niệm trở về với tánh yên lặng, nên tâm tánh phát ra sáng suốt, như lóng nước đục, lóng càng lâu nước càng trong sáng, đó là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

Đây Ngài Mục-kiền-liên thuật là cũng gặp ba anh em ông Ca-diếp, còn chỗ khác lại nói là Ngài Xá-lợi-phất gặp ông A-thuyết-thị nói bài kệ nhân duyên rồi kiến đạo, sau đó mới về thuật lại cho Ngài Mục-kiền-liên nghe, Ngài cảm rồi có tỉnh. Sau đó, hai Ngài mới cùng dẫn 250 đồ chúng đến gặp Phật xuất gia.

Ngài Mục-kiền-liên có sức thần thông tự tại thanh tịnh và tròn sáng. Sở dĩ chứng viên thông do không theo thức phân biệt lăng xăng làm vẫn đục mà xoay ý niệm trở về tánh trong lặng, rồi tâm tánh phát ra sáng suốt, như là lóng nước càng lâu càng trong, thoát khỏi mê lầm của ý thức. Ý thức rất bén nhạy nên nói là “công vi thủ mà tội vi khôi”, công đứng đầu mà tội cũng đứng đầu. Người biết dùng thì ý có công, còn không biết dùng thì nó thành tội. Khi chuyển ý rồi thì nó thành diệu dụng, nên Ngài được thần thông tự tại.

Đây là sáu vị từ nơi sáu thức mà chứng viên thông. Sáu thức này nếu nó theo căn trần mà sanh phân biệt thì nó bị giới hạn nơi căn trần. Chuyển được nó thì vượt thoát căn trần, không theo căn trần mà sanh phân biệt nên sáng suốt, giải thoát tự tại tức sạch hết lậu. Như vậy, từ mười tám giới căn, trần, thức xoay trở lại thì đều thành giải thoát, không phải tìm giải thoát ở đâu xa. Ở đây chỉ còn thiếu nhĩ căn chưa nói là để phần sau mới chọn nhĩ căn viên thông.

Qua đến phần thất đại, từ thất đại mà chứng viên thông.

 

CHÁNH VĂN:

Ông Ô-sô-sắt-ma đối trước Đức Như Lai, chắp tay đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con tưởng nhớ trước kia trong kiếp xa xôi tánh có nhiều tham dục. Lúc ấy có Đức Phật ra đời, hiệu là Không Vương, bảo người nhiều dâm dục thành như đống lửa hừng và dạy con quán khắp những hơi nóng lạnh nơi trăm vóc tứ chi. Con nhờ quán như vậy mà thần quang bên trong lặng đứng, hóa tâm đa dâm thành lửa trí tuệ. Từ đó chư Phật đều gọi con tên là Hỏa Đầu, con dùng sức Hỏa quang tam-muội thành quả A-la-hán. Trong tâm phát đại nguyện, khi các Đức Phật thành đạo, con làm lực sĩ gần gũi bên Phật hàng phục bọn tà ma không cho khuấy phá.

Nay Phật hỏi về viên thông, con dùng pháp quán các hơi ấm nơi thân tâm đều lưu thông không ngăn ngại. Các lậu đã tiêu, sanh ra ngọn lửa đại trí quý báu lên bậc Vô thượng Giác, đó là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

Ô-sô-sắt-ma dịch là Hỏa Đầu, tức là thần Hỏa Đầu Kim Cang thị hiện hộ trì Phật pháp, còn trong kinh đây Ngài cũng là bậc chứng quả A-la-hán giải thoát. Ngài quán thấu lửa dâm dục không có thật thể, chỉ là vọng tưởng nên không đồng hóa với nó, chuyển thành lửa trí tuệ đốt tiêu các lậu thành giải thoát. Ngài thường thị hiện làm thần Kim Cang Lực Sĩ theo hộ vệ Đức Phật. Đó là từ nơi hỏa đại mà vào đạo.

 

CHÁNH VĂN:

Bồ-tát Trì Địa liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con nhớ kiếp xưa, khi Đức Phổ Quang Như Lai ra đời, con làm Tỳ-kheo thường ở nơi các nẻo đường trọng yếu, bến đò, đất đai hiểm trở eo hẹp không được như ý, có thể làm hại đến xe ngựa, con đều đắp bằng, hoặc làm cầu cống, hoặc gánh đất cát. Siêng năng khổ nhọc như vậy, trải qua không lường Đức Phật ra đời. Hoặc có chúng sanh ở nơi chợ búa, cần người mang đồ vật, trước tiên con mang hộ đến nơi đến chốn, để đồ vật xuống liền đi, chẳng nhận thù lao. Cho đến khi Phật Tỳ Xá Phù ra đời, người đời phần nhiều bị nghèo đói, con cũng giúp người không kể xa gần, chỉ lấy một tiền, hoặc có xe trâu sa xuống bùn lầy, con dùng sức mạnh đẩy xe lên cho khỏi khổ não.

Vị Vua trong nước thuở ấy thiết trai cúng Phật, con liền sửa sang đường đất bằng phẳng chờ Phật đi qua. Đức Tỳ Xá Phù Như Lai xoa đảnh đầu con mà bảo rằng: “Nên bình đất tâm thì tất cả đất ngoài thế giới đều bình” con liền khai ngộ, thấy vi trần nơi thân thể và tất cả vi trần tạo thành thế giới đều bình đẳng không sai khác, tự tánh của vi trần không chạm xúc lẫn nhau, cho đến những việc đao binh cũng không đụng chạm gì. Con do nơi pháp tánh ngộ Vô sanh pháp nhẫn thành quả A-la-hán, xoay tâm về Đại thừa nên hiện nay ở trong hàng Bồ-tát. Khi nghe Đức Như Lai dạy về chỗ Tri kiến của Phật như Diệu Liên Hoa thì tỏ chứng đầu tiên làm thượng thủ.

Nay Phật hỏi về viên thông, con do quán kỹ hai thứ vi trần nơi căn thân và thế giới đều bình đẳng không sai khác, vốn là Như Lai Tạng, giả dối phát sanh ra trần tướng, trần tướng tiêu thì trí tuệ được viên mãn, thành đạo Vô thượng, đó là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

Bồ-tát Trì Địa thuật lại nhân duyên ban đầu từ thời Phật Phổ Quang Như Lai, làm vị Tỳ-kheo thường tu hạnh sửa sang đường xá, đất đai khiến cho bằng phẳng, giúp người đi lại dễ dàng, tức bình đất bên ngoài. Đến khi gặp Phật Tỳ Xá Phù thì Phật dạy Ngài bình đất tâm thì thế giới sẽ bình. Liền đó, Ngài ngộ trở lại, quán thấu vi trần ở trong thân và ngoài thế giới đều không có tự tánh thật, không rời ngoài tâm mà riêng có. Tức thấu qua trần tướng, tâm không có chỗ sanh, liền thành giải thoát. Nhưng rồi Ngài chuyển tâm về Đại thừa vào Tri kiến Phật.

Trong đây cần thấu suốt bụi ở trong và bụi bên ngoài cũng chỉ là bụi thôi. Tự tánh của bụi thì không chạm xúc lẫn nhau. Thứ hai, quán bụi không có tự tánh thật, do chúng ta chấp thành có ngã. Thấy bụi trong thân là thuộc về cái ngã của tôi, bên ngoài là thuộc cái khác nên có cái này chạm cái kia. Còn bụi với bụi thôi thì có gì chạm?

Quán thấu như vậy thì sạch hết tâm phân biệt, tâm không sanh. Khi sáng tỏ rồi cho đến đao binh cũng không đụng chạm được trong ấy. Vì đao binh thuộc về bụi trần, làm sao chạm đến chỗ chân thật kia, chỗ chân thật kia đâu có hình tướng gì mà chạm được. Nó có chém thì chỉ chém cái thân này, là đem bụi chém bụi, đâu có chém được cái kia, quán thấu vậy thì giải thoát. Đây là từ địa đại mà chứng viên thông.

 

CHÁNH VĂN:

Ngài Nguyệt Quang Đồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con nhớ kiếp xưa như số cát sông Hằng, có Đức Phật ra đời hiệu là Thủy Thiên; dạy chư Bồ-tát tu tập quán nước để vào Tam-ma-địa. Quán tánh nước trong thân không ngăn ngại lẫn nhau. Quán từ nước mũi, nước bọt cho đến tất cả các thứ tân dịch tinh huyết, đại tiện, tiểu tiện, xoay vần trong thân đồng là một tánh nước. Quán thấy nước trong thân và nước các bể hương thủy của cõi Phù Tràng Vương ở ngoài thế giới đều bình đẳng nhau không sai khác.

Khi ấy con mới thành tựu được pháp quán này, chỉ thấy nước mà chưa được không có thân. Chính khi làm Tỳ-kheo tọa thiền trong thất, con có đứa đệ tử nhỏ dòm cửa sổ nhìn vào trong thất chỉ thấy nước trong đầy khắp trong thất, không thấy vật gì khác. Nó nhỏ dại không biết, bèn lấy một miếng ngói ném vào trong nước, đập vào nước phát ra tiếng, ngó quanh rồi bỏ đi. Sau khi con xuất định liền cảm giác bị đau tim, như Ngài Xá-lợi-phất bị con quỷ Vi Hại đập.

Con tự suy nghĩ, nay mình đã được đạo A-la-hán, từ lâu không còn nhân duyên mắc bệnh được nữa, làm sao ngày nay lại sanh ra đau tim, không lẽ đã bị thối thất chăng. Khi ấy đứa đệ tử của con đi đến kể lại cho con những việc như trước, con bảo nó sau này nếu thấy nước thì nên mở cửa vào phòng lấy miếng ngói trong nước ấy đi. Đệ tử vâng lời con bảo. Sau khi con nhập định, nó lại thấy nước và miếng ngói rõ ràng, nó liền mở cửa lấy miếng ngói bỏ ra. Sau khi xuất định thân thể trở lại như cũ.

Con đã gặp không lường chư Phật cho đến Đức Sơn Hải Tự Tại Thông Vương Như Lai, con mới được không thân và cùng các biển Hương Thủy trong mười phương thế giới, các tánh hợp với chân không, không hai không khác. Hiện nay ở nơi Đức Như Lai con được tên là Đồng Chân, được dự vào hội của các vị Bồ-tát. Nay Phật hỏi về viên thông, con do quán tánh nước một mực lưu thông, được pháp Vô sanh nhẫn, viên mãn đạo Bồ-đề, đó là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

Ngài Đồng tử Nguyệt Quang quán thấu tánh nước ở trong thân và cả bên ngoài là không hai, đến rốt ráo quên thân, trở về tánh chân không không còn ngăn ngại. Sức quán của Ngài cũng thật hy hữu. Ban đầu quán nước trong thân như nước mũi, nước bọt, nước mắt cho đến tinh huyết, đại tiện tiểu tiện đều là nước, mà tánh nước là không hai, không có phân biệt là nước này nước kia. Ngược lại, tâm chúng ta phân biệt nên thấy nước mũi khác, máu, nước tiểu khác mới có nhơ sạch, kia đây. Rồi Ngài quán sâu nữa thấy nước trong thân cả đến nước bên ngoài, và các bể Hương Thủy của cõi Phù Tràng Vương nhiều vô kể đều bình đẳng như nhau. Tuy định sâu như vậy nhưng chưa viên mãn nên chưa quên được thân. Đến thời Phật Sơn Hải Tự Tại Thông Vương Như Lai, Ngài mới được giải thoát, mới được quên thân. Đến đây mới cùng với các biển Hương Hải trong mười phương thế giới, tánh hợp chân không, không hai không khác, trong ngoài không còn chỗ nào ngăn ngại.

Như vậy, tất cả nước cũng không ngoài Tạng tánh, tức không có tự tánh riêng, không phải ngoài tâm riêng có, thì chỗ nào để tâm sanh? Liền thành Vô sanh pháp nhẫn. Đây là từ thủy đại mà vào viên thông.

 

CHÁNH VĂN:

Ngài Lưu Ly Quang Pháp Vương tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con nhớ thuở xưa trải qua hằng sa kiếp có Đức Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Thanh, khai thị tánh bản giác diệu minh cho các hàng Bồ-tát và dạy quán thế giới cùng thân chúng sanh này, đều do sức lay động của vọng duyên chuyển biến ra, khi ấy con quán cái không gian an lập, quán thời gian thiên lưu, quán thân thể khi động khi yên, quán thức tâm động niệm; tất cả cái lay động đều như như bình đẳng không sai khác. Khi ấy con giác ngộ các thứ động ấy đều không do đâu, đi không tới đâu; tất cả chúng sanh điên đảo như số vi trần trong mười phương đều đồng một hư vọng. Như thế cho đến tất cả chúng sanh trong một tam thiên đại thiên thế giới cũng như hàng trăm loài muỗi mòng đựng trong một cái đồ đựng, vo vo kêu loạn ở trong gang tấc ồn ào rối rít.

Con gặp Phật chưa bao lâu, được pháp Vô sanh nhẫn. Bây giờ tâm con khai mở mới thấy cõi Phật bất động, làm vị Pháp Vương tử, phụng thờ chư Phật trong mười phương, thân tâm phát sáng, thấu suốt không ngăn ngại. Nay Phật hỏi về viên thông, con dùng trí quán sát sức lay động không chỗ nương, ngộ được tâm Bồ-đề, vào Tam-ma-địa, hợp với một diệu tâm mà mười phương chư Phật truyền dạy, đó là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

Ngài Lưu Ly Quang Pháp Vương tử thuật lại vào thời quá khứ xa xưa, thời Phật Vô Lượng Thanh ra đời dạy chúng sanh, khai thị về bản giác diệu minh, là tánh giác chân thật sáng suốt sẵn có của mỗi người, giúp tất cả tỉnh giác thấy trở lại lẽ thật nơi mình. Rồi Ngài quán cả thế giới cho đến thân và tâm chúng sanh, tất cả đều lay động. Quán thấy những lay động đó đều bình đẳng với nhau.

Ngài quán thấu sức lay động nơi thân tâm thế giới, đều một tánh không. Nghĩa là về tướng động thì có động nơi thân tâm và thế giới, nhưng những cái động đó tánh là không, không có thật thể, nên nói “giác ngộ các thứ động đó đều không do đâu, đi không tới đâu”, thấy gốc gác nó không có thực. Đã là tánh không, không thật thể thì nó đâu có động đến được cái diệu tâm mà mười phương chư Phật truyền dạy. Tức ngay cái tâm đó mà thấy suốt cõi Phật bất động, và gặp chư Phật đồng phụng thờ mười phương chư Phật. Đó là điều quan trọng.

Đây là ngay cái động mà quán thấu cái bất động. Ngay nơi gió là cái lay động mà quán thấu được tột gốc của nó thì cũng thành tựu được giác ngộ. Đó là Ngài Lưu Ly Quang Pháp Vương tử từ phong đại mà chứng viên thông.

 

CHÁNH VĂN:

Bồ-tát Hư Không Tạng liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con cùng Đức Như Lai đến chỗ Phật Định Quang, chứng được thân vô biên. Khi ấy tay con cầm bốn hạt châu báu lớn, chiếu sáng các cõi Phật trong mười phương như số vi trần hóa thành hư không. Lại ở nơi tự tâm hiện ra trí Đại viên kính, trong ấy phóng ra mười thứ hào quang vi diệu quý báu soi khắp các cõi Phù Tràng Vương cùng tột hư không trong mười phương đều vào trong viên kính ấy, nhập với thân con, và thân con đồng với hư không, không ngăn ngại lẫn nhau. Thân con lại khéo vào các cõi nước như vi trần rộng làm các Phật sự, được đại tùy thuận.

Thần lực lớn đó là do con quán kỹ tứ đại không chỗ nương, do vọng tưởng mà có sanh diệt, hư không không có hai, và cõi Phật vốn đồng, do phát minh được tánh đồng mà chứng được Vô sanh nhẫn. Nay Phật hỏi về viên thông, do con quán xét hư không không bờ bến, vào Tam-ma-địa, sức nhiệm mầu được viên mãn sáng suốt, đó là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

Ngài Hư Không Tạng quán về hư không. Quán thấu bốn đại vốn không có tự tánh nên thấy thân đồng với hư không, không bờ mé. Còn chúng ta vì thấy bốn đại là thật thành ra có chướng ngại, có giới hạn.

Do thân rỗng suốt đồng với hư không nên tâm không có chỗ sanh, thấu qua tất cả không gì ngăn ngại, được thân vô biên, thành tựu sức nhiệm mầu viên mãn sáng suốt, quên cái ngã này. Đây là Ngài khéo quán về không đại mà thành tựu giác ngộ viên thông.

 

CHÁNH VĂN:

Bồ-tát Di-lặc liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Con nhớ trải qua vi trần kiếp về trước, có Phật ra đời hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Con được theo Đức Phật kia xuất gia, nhưng tâm nặng về danh lợi ở thế gian, ưa giao du với những người quyền quý. Lúc ấy Đức Thế Tôn dạy con tu tập “Định Duy Tâm Thức”, con được vào Tam-ma-địa. Trải qua nhiều kiếp đến nay, do pháp Tam-muội này mà phụng thờ hằng sa chư Phật. Tâm cầu danh lợi thế gian đã diệt hết không còn.

Đến khi Đức Phật Nhiên Đăng ra đời, con mới thành tựu được chánh định Vô Thượng Diệu Viên Thức Tâm cho đến tất cả cõi nước Như Lai nào tịnh, uế, có, không tột bờ mé hư không, đều do tâm con biến hóa hiện ra.

Bạch Thế Tôn! Do con rõ được duy tâm thức như thế, nên nơi thức tánh lưu xuất vô lượng Như Lai, và hiện nay con được Phật thọ ký, sau đây sẽ bổ xứ thành Phật nơi cõi này.

Nay Phật hỏi về viên thông, con do quán sát mười phương đều duy thức, thức tâm được viên mãn sáng suốt, chứng nhập tánh “viên thành thật” xa lìa tánh “y tha khởi” và tánh “biến kế chấp”, được pháp Vô sanh nhẫn, đó là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

Bồ-tát Di Lặc quán về Duy thức. Đây là Ngài quán tột thức tâm không có bờ mé, là ngoài tâm không có một pháp thật. Rõ thấu các pháp đều từ tâm thức hiện nên không thấy một pháp nào ngoài tâm mà riêng có thì chỗ nào để sanh tâm? Sở dĩ chúng ta sanh tâm là thấy ngoài tâm có pháp, nên mới duyên nơi pháp mà sanh tâm. Còn đây không thấy ngoài tâm có pháp nào hết, vậy còn chỗ nào để sanh tâm nữa? Nên nói tột mé hư không đều do tâm con hóa hiện, không có một pháp thật nào riêng có.

Vô lượng Như Lai cũng từ tâm mà được thành, không phải ngoài tâm mà riêng có. Vậy ngộ ngay tâm là đủ, rốt ráo thức tâm được viên mãn sáng suốt, chứng nhập được tánh “viên thành thật”, xa lìa tánh “y tha khởi” và tánh “biến kế chấp”, trở về thức tánh chân thật.

“Viên thành thật” là tánh chân thật. Trở về tánh “viên thành thật”, là tánh không sanh diệt, thành tựu được giác ngộ, chứng viên thông. Chúng ta thấy, ngay cái thức cũng mang đủ tánh viên thông chân thật. Khi quán thấu trở lại thì không theo thức mà sanh tâm, liền trở về thức tánh chân thật được giác ngộ.

 

CHÁNH VĂN:

Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương tử cùng với năm mươi hai vị Bồ-tát đồng tu một pháp môn liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật và bạch Phật rằng: “Con nhớ hằng sa kiếp về trước, có Đức Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Quang. Lúc ấy mười hai Đức Như Lai tiếp tục ra đời trong một kiếp. Đức Phật rốt sau hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang.

Đức Phật kia dạy con tu pháp “Niệm Phật tam-muội”. Thí như có hai người, một đàng chuyên nhớ, một đàng chuyên quên, thì hai người ấy dù gặp nhau mà cũng là không gặp, dù thấy cũng là không thấy.

Nếu cả hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ khắc sâu vào tâm niệm, thì đồng nhau như hình với bóng, cho đến từ đời nay sang đời khác, không bao giờ cách xa nhau.

Mười phương Như Lai thương tưởng chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con trốn tránh thì tuy có nhớ nào có ích gì. Nếu con nhớ mẹ, như khi mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không cách xa nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hoặc về sau nhất định thấy Phật, cách Phật không xa thì không cần phương tiện, tự tâm được khai ngộ.

Như người ướp hương thì thân thể có mùi thơm. Đây gọi là hương quang trang nghiêm. Căn bản tu nhân của con là dùng tâm niệm Phật, mà vào pháp vô sanh nhẫn. Nay ở cõi này (Ta-bà) tiếp dẫn người niệm Phật về cõi Tịnh độ. Nay Phật hỏi về viên thông, con không lựa chọn chỉ thu nhiếp sáu căn tịnh niệm liên tục được vào Tam-ma-địa, đó là bậc nhất”.

GIẢNG GIẢI:

Ngài Đại Thế Chí tu về niệm Phật tam-muội, nhiếp hết sáu căn, không phải là tu từng căn. Ngài thí dụ như là hai người một bên chuyên nhớ còn một bên chuyên quên, nên dù gặp nhau cũng như không thấy nhau. Còn hai bên đều nhớ nhau thì khế hợp với nhau, bảo đảm là thường gặp nhau. Niệm Phật cũng như vậy, Phật nhớ chúng sanh, chúng sanh nhớ Phật, hai bên cùng nhớ, bảo đảm khi duyên đầy đủ thuần thục sẽ thấy Phật.

Ngài tu niệm Phật đây là dùng tâm niệm Phật, không phải niệm ở trên miệng. Niệm là luôn luôn nghĩ nhớ không quên. Tâm luôn nghĩ nhớ đến Phật, niệm niệm không gián đoạn thì Phật hiện nơi tâm, tâm khế hợp với Phật. Gọi là như con nhớ mẹ, rồi mẹ nhớ con thì con và mẹ gặp nhau, nhất định là thấy Phật, cách Phật không xa.

Niệm Phật như thế này thì cũng đâu khác với tu thiền, cũng là dùng một niệm mà dẹp tất cả niệm, không để niệm nào khác chen vào, cuối cùng tâm thấy Phật, Phật hiện ngay nơi tâm. Vậy thiền và niệm Phật đâu có ngăn cách, đâu còn khen chê kia đây gì nữa. Tu mà được thế này thì đâu dễ dàng. Nếu có tâm khen chê đây kia thì đâu thành tịnh niệm liên tục được. Ngài trình bày chỗ căn bản tu nhân của Ngài là dùng tâm niệm Phật mà vào được Vô sanh nhẫn, đồng thời nhờ thu nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm liên tục mà thành tựu Tam-ma-địa. Tức từ kiến đại mà chứng viên thông.

Đến Bồ-tát Quán Thế Âm kể về pháp tu nhĩ căn chứng được viên thông.

 

CHÁNH VĂN:

Khi ấy Bồ-tát Quán Thế Âm liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con nhớ vô số hằng hà sa kiếp về trước có Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm, từ Đức Phật kia con phát tâm Bồ-đề. Đức Phật kia dạy con do từ nghe, suy nghĩ và tu mà vào Tam-ma-địa.

GIẢNG GIẢI:

Bồ-tát Quán Thế Âm thuật lại nhân duyên phát tâm Bồ-đề của Ngài cũng từ thời xa xưa, từ hằng hà sa số kiếp về trước. Thời đó cũng có Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm, từ nơi Đức Phật đó mà Ngài phát tâm Bồ-đề. Đức Phật đó dạy Ngài tu từ văn, tư, rồi tu mà vào được Tam-ma-địa tức chánh định. Đây cũng là con đường tu hành của chúng ta nên phải học kỹ. Tức là nghe, suy nghĩ quán chiếu rồi thực hành để chứng thật trong đó, chứ không phải chỉ dừng ở trên cái nghe cho là đủ.

 

CHÁNH VĂN:

Ban đầu ở trong tánh nghe, vào được dòng liền quên tướng bị nghe. Trần tướng đã vắng lặng thì hai tướng động và tịnh rõ thật không sanh. Như vậy dần dần tăng tiến thêm, các tướng năng văn, sở văn đều hết. Không dừng lại chỗ dứt hết năng văn, sở văn mà tiến lên nữa, thì năng giác sở giác đều không. Cái không giác tột bực viên mãn nên các tướng năng không, sở không đều diệt. Sanh diệt đã diệt thì bản tánh tịch diệt hiện tiền.

GIẢNG GIẢI:

Bồ-tát Quán Thế Âm trình bày pháp tu theo thứ lớp. Chúng ta học kỹ sẽ thấy được chỗ cạn sâu để trở về nguồn.

Thứ nhất, ở trong tánh nghe, vào dòng liền quên tướng bị nghe: tướng bị nghe là đối tượng âm thanh; vào dòng tức ngược trở lại trong tánh nghe. Tức là nghe mà quên thanh trần, quên tiếng, quên trần, không theo duyên. Đó gọi là vào dòng, là chỗ khéo tu. Còn nghe mà theo tướng bị nghe là đi vào sanh tử.

Đây nói vào dòng tức là trở về nguồn, là con đường xuất thế gian. Để thấy con đường thế gian và xuất thế gian đơn giản rõ ràng, không phải xa xôi. Nếu nghe mà theo tướng bị nghe là theo thanh trần thì đó là vào thế gian; còn đây là nghe mà quên tướng bị nghe, ngược trở lại vào dòng đó là xuất thế gian. Hai con đường rõ ràng, hễ đi ra thì vào thế gian tức vào sanh tử, còn nghe trở lại, ngược dòng trở về thì đó là con đường xuất thế gian, đây gọi là vào dòng.

Thứ hai, trần tướng vắng lặng thì hai tướng động tịnh không sanh, không theo tướng bị nghe nên trần tướng vắng lặng. Là không có tâm duyên theo thì nó tự lặng thôi. Như vậy, hai tướng động tịnh tự nó không sanh. Là bặt duyên bên ngoài.

Thứ ba, năng văn sở văn đều hết, tức là cái hay nghe và cái bị nghe đều hết, là vượt qua hai tướng năng sở đối đãi.

Thứ tư, năng giác sở giác đều không. Bởi vì cái hay nghe, cái bị nghe dứt nhưng nhiều khi còn giữ lại cái giác, giác được hai cái năng sở đều dứt đó, thành ra cũng còn có năng sở. Còn thấy chỗ hết tức là còn chỗ để giác, giác cái chỗ hết đó. Mà còn chỗ giác là còn có năng giác, đối với sở giác. Như vậy, cũng lại còn đối đãi vi tế, chưa hết được kia đây, là chưa sạch được dấu vết của tâm duyên. Cho nên tiến lên bước nữa, năng giác sở giác đều không tức là buông luôn cái chỗ hết năng văn sở văn đó.

Thứ năm, năng không sở không cũng diệt. Bởi vì năng giác sở giác đều không nhưng không khéo lại trụ nơi cái chỗ không đó thành ra cũng còn có cái năng không, sở không. Nên cũng còn có cái năng sở đối đãi vi tế. Do đó, tiến thêm bước nữa là năng không sở không đều diệt tức không còn có cái không để mà không nữa. Nếu còn có cái không để mà không, lại cũng nằm trong cái sanh diệt tạo tác. Đến khi không còn cái không để mà không nữa thì hết chỗ để tâm duyên đến.

Thứ sáu, sanh diệt đã diệt thì tịch diệt hiện tiền, không còn có bóng dáng của sanh diệt tức là không còn cái thấy sanh diệt. Đây vượt qua tất cả đối đãi, hết còn chỗ thấy sanh diệt, gọi là sanh diệt đã diệt thì tịch diệt hiện tiền. Sạch hết tướng sanh diệt thì không còn gì để nói nữa, tạm gọi là tịch diệt hiện tiền.

Như vậy, Bồ-tát Quán Thế Âm tu từng bước kỹ lưỡng chớ không phải nói suông. Ban đầu là từ cái nghe soi trở lại quên cái bị nghe, tức không nghe theo tiếng, quên đối tượng, quên thanh trần, gọi là nhập lưu vong sở, vào dòng quên chỗ bị nghe.

Cho đến khi năng sở đều hết, rồi cái chỗ hết cũng không luôn, là không còn dấu vết để giác. Nhớ kỹ là không còn dấu vết để mà giác. Nếu còn giác được cái chỗ hết năng sở thì cũng hay, nhưng còn cái chỗ hết để mà giác, thì cái giác đó cũng chưa viên mãn. Rồi đến sạch hết cái không để mà không nữa, là tột hết dấu vết sanh diệt, thì tịch diệt hiện tiền. Người quán kỹ, quán tột chỗ này liền ngay đây chứng Vô sanh nhẫn. Quán vậy đó mới gọi là tột. Đó là con đường để trở về nguồn.

Điều mà tất cả phải nên chú ý là điểm tột cùng “tịch diệt hiện tiền”. Cuối cùng không phải là hoàn toàn đoạn diệt không còn gì hết, mà đến chỗ cuối cùng hết còn ngôn ngữ để nói, tạm gọi là tịch diệt hiện tiền. Đó là chỗ quan trọng. Cái tịch diệt hiện tiền này không có ngôn ngữ để diễn tả nên người chứng đến đó thì tự biết. Nhưng người chưa chứng đến cũng cần hiểu chỗ vi tế đó để trên đường tu khỏi phải lo sợ.

Nói là cuối cùng sanh diệt diệt hết, tịch diệt hiện tiền, vậy thế nào là hiện tiền? Trong nhà thiền hét lên một tiếng là xong. Còn giải thích thế này thế kia là đi xa, vì chỗ đó không phải là chỗ lý luận. Đây là gợi ý cho tất cả, cần phải đi đến tột như thế.

Kế, Bồ-tát Quán Thế Âm nói lên những kết quả tu, khi tu chứng rồi thì thành tựu những quả đức tức những diệu dụng phát ra.

 

CHÁNH VĂN:

Bỗng nhiên siêu vượt thế và xuất thế gian, mười phương tròn sáng được hai pháp thù thắng. Một là trên hợp với Bản Giác Diệu Tâm của Phật, cùng với Phật Như Lai đồng một từ lực; hai là dưới hợp với tất cả lục đạo chúng sanh trong mười phương, cùng với các chúng sanh đồng một bi ngưỡng.

GIẢNG GIẢI:

Đến chỗ tột con đường tu là vượt khỏi thế gian và xuất thế gian, không còn nằm trong đối đãi, hết còn dấu vết để tìm. Vậy là không còn chỗ nào để cho cái mê chen vào, sự giác ngộ mới viên mãn. Rồi mười phương tròn sáng được hai pháp thù thắng, trên đồng một từ lực giống với Phật, dưới đồng một bi ngưỡng với chúng sanh. Là thấu suốt cả trên dưới, không còn cách biệt phàm Thánh. Chỗ này tư tưởng làm sao tưởng tới được.

 

CHÁNH VĂN:

Bạch Đức Thế Tôn! Do con cúng dường Đức Quán Thế Âm Như Lai, nhờ Ngài truyền thọ cho con chánh định Kim Cang Như Huyễn, văn huân, văn tu mà được cùng với Như Lai đồng một từ lực, nên làm cho thân con thành ba mươi hai ứng thân vào các cõi nước.

GIẢNG GIẢI:

Dùng chánh định Kim Cang Như Huyễn thành tựu các ứng thân. Chánh định này cứng chắc như Kim Cang nên nó chặt đứt hết tất cả những vô minh, phân biệt, đối đãi v.v..., thấu suốt tất cả pháp đều như huyễn. Bởi thấu suốt tất cả như huyễn cho nên mới có thể hiện được các thân, không có thân nào chướng ngại hết. Tuy hiện các thân nhưng không rời chánh định.

Ngài lại kể:

 

CHÁNH VĂN:

Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát vào Tam-ma-địa tấn tu vô lậu, thắng giải hiện đã viên mãn, con hiện thân Phật mà vì họ thuyết pháp khiến cho được giải thoát.

GIẢNG GIẢI:

Đối với các vị Bồ-tát cần hiện thân Phật thì Ngài hiện được thân Phật để giúp cho Bồ-tát ấy được viên mãn giải thoát. Vậy Ngài cần hiện thân Phật là hiện được thân Phật, nên có kinh ghi là các vị Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Văn-thù là những vị cổ Phật, đã thành Phật nhưng không trụ nơi quả Phật mà vẫn hành hạnh Bồ-tát để giáo hóa chúng sanh.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu các hàng hữu học được pháp diệu minh vắng lặng, chỗ thắng diệu đã viên mãn, con ở trước người ấy hiện thân Độc Giác vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được giải thoát.

GIẢNG GIẢI:

Với những vị cần hiện thân Độc Giác thì Ngài cũng hiện thân Độc Giác để giúp họ được giải thoát. Độc Giác là những vị ra đời không gặp Phật, nhưng do chủng tử huân tập sâu dày nên tự mình tu được giác ngộ. Thí dụ các Ngài ra đời thấy cảnh mùa xuân cây cối lá xanh tươi, hoa nở tươi đẹp, qua mùa thu thấy lá vàng rụng thì liền ngộ lý vô thường, không có ai dạy mà tự ngộ, tự chứng đạo.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu các hàng hữu học đoạn mười hai nhân duyên, do các nhân duyên đã đoạn mà phát ra thắng tánh và thắng tánh đó hiện viên mãn, con ở trước người ấy hiện thân Duyên Giác vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được giải thoát.

GIẢNG GIẢI:

Với người cần hiện thân Duyên Giác thì Ngài cũng hiện ra để thuyết pháp khiến được giải thoát. Duyên Giác do tu pháp Mười hai nhân duyên mà được giải thoát.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu các hàng hữu học được pháp không của Tứ đế, tu đạo và diệt đế thắng tịnh hiện ra viên mãn, con ở trước người kia, hiện thân Thanh Văn mà vì họ thuyết pháp, khiến cho được giải thoát.

GIẢNG GIẢI:

Người tu Tứ đế để cầu giải thoát là hàng Thanh Văn, nếu cần thì Ngài cũng hiện thân Thanh Văn mà thuyết pháp. Tuy Ngài hiện thân Thanh Văn nhưng đâu phải Thanh Văn, nên gọi là ngoài hiện tướng Thanh Văn mà trong ẩn hạnh Bồ-tát. Chúng ta phải cẩn thận, đừng thấy như vậy mà phê bình.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu các chúng sanh muốn tâm được tỏ ngộ, không phạm vào cảnh ngũ dục và muốn cho thân được thanh tịnh, con ở trước người kia hiện thân Phạm Vương mà vì họ nói pháp, khiến cho được giải thoát.

GIẢNG GIẢI:

Cần hiện thân Phạm Vương thì cũng hiện thân Phạm Vương để độ thoát.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu các chúng sanh muốn làm Thiên chủ thống lãnh chư Thiên, con ở trước người kia hiện thân Đế-thích mà vị họ thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Cần hiện thân Trời Đế-thích là vị chủ trời của 32 cõi trời thì Ngài cũng hiện thân Đế-thích để thuyết pháp. Trời Đế-thích thuộc về Dục giới, còn Phạm thiên thuộc về Sắc giới.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu các chúng sanh muốn thân được tự tại, dạo đi khắp mười phương, con ở trước người kia hiện thân Trời Tự Tại mà vì họ thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Cần hiện thân Trời Tự Tại thì cũng hiện thân Trời Tự Tại vô ngại.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu các chúng sanh muốn thân tự tại, bay đi trong hư không, con ở trước người kia hiện thân Trời Đại Tự Tại mà vì họ thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Đây, cần hiện thân Trời Đại Tự Tại là cõi trên đảnh Sắc giới thì Ngài cũng hiện được thân Trời Đại Tự Tại.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu các chúng sanh ưa thống lĩnh quỷ thần cứu hộ cõi nước, con ở trước người kia hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì họ thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Các vị Thiên Đại Tướng Quân này thống lãnh các quỷ thần, cần hiện thì Ngài cũng hiện được để làm lợi ích chúng sanh.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu các chúng sanh ưa thống lãnh thế giới bảo hộ chúng sanh, con ở trước người kia hiện thân Tứ Thiên Vương mà vì họ thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Trời Tứ Thiên Vương là cõi trời thứ nhất của Dục giới, ở bốn phía nơi eo núi Tu-di, cũng gọi là Hộ Thế Chủ.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu các chúng sanh ưa sanh thiên cung để sai khiến quỷ thần, con ở trước người kia hiện thân Thái tử con của Tứ Thiên Vương vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Thái tử con của Tứ Thiên Vương có thế lực lớn, nên thống lãnh và sai khiến các quỷ thần.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu các chúng sanh ưa làm Vua trong cõi người, con ở trước người kia hiện thân Vua, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Cần hiện thân Vua thì hiện thân Vua để làm lợi ích.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu các chúng sanh thích làm chủ trong gia đình danh tiếng, người đời kính nhường, con đối trước người kia, hiện thân Trưởng giả vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Trưởng giả là người thuộc gia đình quý tộc, được nhiều người kính nhường, cần hiện thì Ngài liền hiện tự tại.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu có chúng sanh thích đàm luận những lời hay, giữ mình trong sạch, con ở trước người kia hiện thân Cư sĩ, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Hiện thân Cư sĩ là những người sống trong thế gian nhưng giữ mình trong sạch.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu các chúng sanh ưa trị cõi nước, chia đoán các ban, các ấp, con ở trước người kia hiện thân Tể quan vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Cần hiện thân Tể quan thì hiện thân Tể quan để làm lợi ích.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu các chúng sanh thích các số thuật tự mình nhiếp tâm giữ thân, con ở trước người kia hiện thân Bà-la-môn vì họ mà thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Cần hiện thân Bà-la-môn thì hiện thân Bà-la-môn.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu có người nam ưa hạnh xuất gia, giữ các giới luật, con ở trước người kia hiện thân Tỳ-kheo vì họ mà thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Cần hiện thân Tỳ-kheo thì hiện thân Tỳ-kheo.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu có người nữ ưa theo hạnh xuất gia, giữ gìn các giới cấm, con ở trước người kia hiện thân Tỳ-kheo-ni vì họ mà thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Cần hiện Tỳ-kheo-ni thì cũng hiện thân Tỳ-kheo-ni.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu có người nam ưa giữ năm giới, con ở trước người kia hiện thân Ưu-bà-tắc vì họ mà thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Cần hiện thân Cư sĩ nam thì hiện thân Cư sĩ nam.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu có người nữ tự giữ năm giới, con ở trước người kia hiện thân Ưu-bà-di vì họ mà thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Cần hiện thân Cư sĩ nữ thì hiện thân Cư sĩ nữ.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu có người nữ, lập thân trong nội chính để tu sửa nhà nước, con ở trước người kia hiện thân Nữ chúa, hay thân Quốc phu nhân, Mệnh phụ, Đại cô vì họ mà thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Cần hiện thân những người nữ quyền quý như Nữ chúa, Quốc phu nhân, Mệnh phụ tức vợ các ông quan lớn thì Ngài đều có thể hiện các thân như thế khiến cho được thành tựu sở nguyện.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu có chúng sanh không phá nam căn, con ở trước người kia hiện thân đồng nam, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Cần hiện thân người nam sống trong sạch, thanh tịnh thì hiện thân đồng nam.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu có người nữ trinh bạch ưa thích thân trinh bạch, không cầu xâm phạm, con ở trước người kia hiện thân đồng nữ vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Cần hiện thân người nữ sống đời trinh bạch, thanh tịnh thì cũng hiện đồng nữ.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu có chư Thiên muốn ra khỏi loài Trời, con hiện thân trời vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

Nếu có các rồng muốn ra khỏi loài rồng, con hiện thân rồng, vì họ mà thuyết pháp khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Tức hiện Trời, hiện rồng, các thần.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu có Dược-xoa muốn ra khỏi loài Dược-xoa, con hiện thân Dược-xoa vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Dược-xoa, cũng đọc Dạ-xoa, tên loài quỷ nửa người nửa thần. Có ba hạng: đi trên đất, bay trên không và ở cõi trời.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu Càn-thát-bà muốn thoát khỏi loài Càn-thát-bà, con hiện thân Càn-thát-bà, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Càn-thát-bà là những thần đánh nhạc cho Trời Đế-thích.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu A-tu-la muốn thoát khỏi loài A-tu-la, con ở trước A-tu-la hiện thân A-tu-la, mà vì họ thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Cần hiện thân A-tu-la thì cũng hiện thân A-tu-la không ngăn ngại.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu Khẩn-na-la muốn thoát khỏi thân loại Khẩn-na-la, con ở trước Khẩn-na-la kia hiện thân Khẩn-na-la, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Cần hiện thân Khẩn-na-la thì cũng hiện thân Khẩn-na-la, hình người nhưng trên đầu có sừng, chuyên ca múa cho Trời Đế-thích.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu Ma-hô-la-già muốn thoát khỏi loài Ma-hô-la-già, con liền hiện thân Ma-hô-la-già, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Ma-hô-la-già tức là thần Mãng xà. Đây là các vị trong Bát bộ.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu các chúng sanh thích làm người, tu cho được thân người, con hiện ra thân người mà thuyết pháp, cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Nếu cần hiện thân người thì cũng hiện thân người.

 

CHÁNH VĂN:

Nếu có loài phi nhân, hoặc có hình, hoặc không hình, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, muốn thoát khỏi loài mình, con ở trước họ đều hiện ra cái thân như họ, vì họ mà thuyết pháp, khiến cho được thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Những loài phi nhân có hình không hình, có tưởng không tưởng v.v... cần thì Ngài cũng đều hiện ra được hết.

 

CHÁNH VĂN:

Ấy gọi là ba mươi hai ứng thân thanh tịnh nhiệm mầu vào trong cõi nước, đều do chánh định văn huân, văn tu, vô tác diệu lực tự tại thành tựu.

GIẢNG GIẢI:

Do chánh định vô tác diệu lực mà được hiện thân thành tựu tự tại như vậy. Hiện mà không phải do tạo tác hay do động niệm mà do sức cảm ứng vô tác tự tại. Đó là những ứng thân của Bồ-tát Quán Thế Âm. Ngài hiện đủ hình tướng từ Thánh đến phàm, từ quyền quý, cao sang đến hạng tầm thường cũng đều hiện được hết.

Bên Trung Hoa, Ngài có hiện những thân tướng mà sau này thành những đề tài cho các vị họa sĩ, thi văn như là Quan Âm Ngư Lam, Quan Âm Mã Lang Phụ v.v...

Truyện kể ở vùng Thiểm Hữu, là vùng chưa biết Phật pháp, người dân theo nghề nghiệp sát sanh, tạo nhiều tội ác. Vì muốn độ người dân trong vùng, Ngài mới hiện thân người nữ đến đó để độ. Khi ấy, có một người nữ không có cha mẹ thân thuộc, cũng không biết từ đâu đến. Nhiều thanh niên trong vùng thấy cô xinh đẹp nên muốn cưới làm vợ.

Cô gái ấy ra điều kiện là ai tụng thuộc lòng phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa trong một đêm thì sẽ chọn người đó làm chồng. Sáng ra, có đến hơn hai mươi người đọc thuộc, cô gái nói là chồng chỉ một người, đây nhiều quá không biết chọn ai? Cô lại ra điều kiện là đọc thuộc kinh Kim Cang. Sáng ra vẫn có mười người đọc thuộc. Cô lại trao cho kinh Pháp Hoa ước hẹn trong ba ngày. Đúng hẹn chỉ có chàng họ Mã đọc thuộc kinh. Cô thuận theo và hẹn ngày làm lễ.

Khi đến giờ rước dâu, cô gái tức hóa thân của Bồ-tát mới thị hiện đau bụng xin vào phòng uống thuốc nghỉ ngơi một chút. Chỉ chốc lát cô lăn ra chết, không lâu thân cô sình trướng lên, trong gia đình mới mau đem chôn. Mấy ngày sau, có vị tăng đến đào huyệt lên thì không còn thấy thân đâu hết mà thấy bộ xương hóa thành vàng. Vị tăng báo cho mọi người biết, đây là Bồ-tát thị hiện để hóa độ cho những người ở vùng này. Từ đó, người dân trong vùng mới biết đến Phật pháp và thờ Phật rất đông. Gọi là tích Quan Âm Mã Lang Phụ.

Như vậy Ngài có nhiều diệu dụng, tùy duyên ứng hiện mà thuyết pháp để giúp chúng sanh được thành tựu những điều cần thiết. Đây cũng là pháp có ý nghĩa để chúng ta quán chiếu. Khi cần hiện thân Phật thì hiện thân Phật, cần hiện thân Độc Giác thì hiện thân Độc Giác, cần hiện thân Duyên Giác thì hiện thân Duyên Giác cho đến hiện thân Trời, người, A-tu-la, cần hiện thân nào thì hiện thân đó. Vậy, thân nào là thân thật của Ngài?

Đó là chỗ quan trọng. Là chỗ chúng ta phải quán thấu, sáng tỏ được lẽ thật thì ngay đó ngộ lý vô sanh. Học kinh cần phải đạt được ý chứ không phải chấp theo lời, không phải phân biệt theo chữ nghĩa. Chỗ này có liên hệ với câu chuyện:

Một hôm, Tiệm Nguyên theo hầu Ngài Đạo Ngô đến điếu tang nhà đàn-việt.

Tiệm Nguyên mới vỗ vào quan tài nói:

- Sanh ư, tử ư?

Nghĩa là chết vào quan tài rồi thì đây là sanh hay là tử?

Ngài Đạo Ngô nói:

- Sanh cũng chẳng nói mà tử cũng chẳng nói.

Lúc đó, Tiệm Nguyên chưa hiểu được ý của Ngài Đạo Ngô nên hỏi lại:

- Vì sao chẳng nói?

Ngài Đạo Ngô bảo:

- Chẳng nói là chẳng nói.

Tiệm Nguyên cũng chưa ngộ.

Trên đường đi về, Tiệm Nguyên thưa:

- Hôm nay, Hòa thượng phải vì con nói mới được. Nếu chẳng nói cho con thì con sẽ đánh Hòa thượng.

Ngài Đạo Ngô bảo:

 - Đánh thì cứ mặc ông đánh, nhưng nói thì chẳng nói.

Tiệm Nguyên đánh.

Khi về đến Viện, Ngài Đạo Ngô bảo:

- Thôi, ông nên từ giã đi nơi khác, e Tri sự biết được chuyện thì khó cho ông.

Tiệm Nguyên mới từ giã đi, đến ẩn nơi viện nhỏ trong thôn, trải qua ba năm. Một hôm, nhân nghe một đồng tử tụng kinh Phổ Môn nói về Bồ-tát Quán Thế Âm này, đến câu “nên dùng thân Tỳ-kheo được độ tức dùng thân Tỳ-kheo mà vì đó nói pháp”. Ngay đó bỗng nhiên Tiệm Nguyên đại ngộ. Sau đó, Sư mới thắp hương hướng về Ngài Đạo Ngô lễ bái, nói:

- Rõ thật lời của Tiên sư để lại trọn chẳng hư dối, tự là ta chẳng lãnh hội lại oán trách Tiên sư.

Đây là ý nghĩa sâu xa về ứng thân của Bồ-tát Quán Thế Âm, khi cần hiện thân nào thì hiện thân đó.

Khi Tiệm Nguyên hỏi: “Sanh ư, tử ư?” tức là cái thấy còn kẹt nơi sanh tử. Còn Ngài Đạo Ngô nói rõ: “Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói”, tức là không thể nói là sanh, cũng không thể nói là tử, hay sanh không cố định là sanh, tử không thể nói cố định là tử. Ngay đó nếu người khéo thì ngộ sanh tử tức vô sanh.

Nhưng Tiệm Nguyên cũng không ngộ được nên hỏi: “Vì sao chẳng nói?”, Ngài Đạo Ngô xác định lại: “Chẳng nói là chẳng nói”, không có vì sao. Ngay đó Tiệm Nguyên vẫn chưa ngộ. Đến sau này nghe đồng tử tụng phẩm Phổ Môn: “Bồ-tát có 32 ứng thân, hễ cần dùng thân nào thì dùng thân đó để độ”, lúc ấy Tiệm Nguyên liền ngộ. Vậy thân nào là thân của Bồ-tát?

Hiện thân Tỳ-kheo rồi bỏ thân Tỳ-kheo hiện thân Tỳ-kheo-ni; vậy thân Tỳ-kheo là thật có sanh có tử không? Thân Tỳ-kheo-ni là thật có sanh có tử không? Tức nó không thật có cái ngã sanh tử trong đó. Vậy ngay đó tức vô sanh chứ gì nữa? Sanh tức vô sanh, ngay đó ngộ vô sanh. Việc sanh tử của chúng ta cũng vậy. Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta hiện biết bao nhiêu thân rồi? Khéo thì ngay đó liền ngộ trở lại, còn không khéo thì cứ theo tướng đó mà lưu chuyển.

Tổng kết lại, Bồ-tát Quán Thế Âm tùy theo cơ cảm mà ứng hiện 32 thân như thế. Đó là do chánh định vô tác diệu lực tự tại thành tựu chứ không phải là do tạo tác. Vô tác là rõ ràng hiện mà không có hiện, hiện mà không có thật sanh, tức là không thuộc sanh diệt, vì thấu suốt tất cả đều như huyễn, không sanh cái ngã trong đó. Nếu người học khéo quán xét thì ngay đây chúng ta ngộ được “ngay sanh tức vô sanh”. Đó là ý nghĩa sâu xa của việc hiện 32 thân của Ngài.

Kế là mười bốn món công đức vô úy.

 

CHÁNH VĂN:

Bạch Thế Tôn! Lại do con dùng vô tác diệu lực của Tam-muội Kim Cang văn huân, văn tu ấy, cùng với mười phương ba đời tất cả chúng sanh trong sáu đường đồng một bi ngưỡng, nên khiến các chúng sanh, từ nơi thân tâm con được mười bốn món công đức vô úy.

GIẢNG GIẢI:

Đây Ngài nói rằng do vô tác diệu lực của Kim Cang tam-muội văn huân, văn tu nhờ đó cùng với mười phương ba đời chúng sanh đồng một bi ngưỡng. Ngưỡng là ngước lên trên mong muốn được cứu vớt. Bi là lòng thương xót mà cứu vớt. Là sạch hết sự ngăn cách với chúng sanh, không còn cách biệt nữa. Thấy chúng sanh cũng như là mình cho nên thành tựu được mười bốn món vô úy cho các chúng sanh. Công đức vô úy là công đức không có sợ hãi.

 

CHÁNH VĂN:

Một là, do con không tự quán các tướng mà quán cái tâm năng quán, khiến cho chúng sanh khổ não trong mười phương kia, quán âm thanh con, tức liền được giải thoát.

GIẢNG GIẢI:

Đây Ngài không quán theo tướng mà quán trở lại tâm năng quán, còn chúng sanh hay chúng ta quán theo tướng mà quên cái tâm năng quán, chỉ nhớ tướng thôi.

Như vậy, không theo tướng sanh tâm, mà xoay ngược trở lại cái tâm năng quán theo hướng giải thoát. Do đó đem đến được nhiều công đức khiến chúng sanh trong mười phương khi quán âm thanh Ngài liền được giải thoát. Vì đâu có theo tướng để trói buộc. Chúng ta khéo tu như vậy cũng được giải thoát. Đó là công đức vô úy thứ nhất.

 

CHÁNH VĂN:

Hai là, do con xoay tri kiến trở lại, khiến cho các chúng sanh giả sử vào trong lửa lớn, lửa cũng không thể đốt cháy.

GIẢNG GIẢI:

Tri kiến tức là cái thấy biết, xoay trở lại chứ không theo nó để hướng ra ngoài sanh phân biệt. Cho nên khiến chúng sanh giả sử có vào trong lửa lớn thì lửa cũng không đốt cháy được.

Điều này có sự có lý, sự tức là có những trường hợp chúng sanh quá sức thành tâm hướng về Ngài nên tâm tạm thời không phân biệt, cũng được qua những nạn khổ về lửa.

Về lý thì xoay cái tri kiến trở lại không theo vào các trần, thì lửa đâu có đốt cháy được trong đó. Nó không theo trần mà lửa cũng thuộc về trần thì trần đâu có vào tới trong đó được mà đốt cháy. Lửa có thể đốt cái thân này thôi chớ đâu có đốt tới chỗ đó được. Thành ra xoay trở lại đó thì lửa không có thể đốt cháy tới. Đó là về lý, trên là về sự.

 

CHÁNH VĂN:

Ba là, do con quán cái nghe xoay trở lại, khiến cho các chúng sanh bị nước lớn cuốn đi mà không bị chết chìm.

GIẢNG GIẢI:

Đến đây, vào nước mà không chìm, là do quán cái nghe, xoay trở lại không theo đó mà chìm trong tiếng, nên nước không dính ở trong đó được. Cái nghe thôi mà nước cũng không dính tới rồi, còn cái nghe mà xoay trở lại nữa thì nước đâu có dính tới trong đó được.

Có vị tăng hỏi Ngài Bảo Phước:

- Thế nào là vào lửa chẳng cháy, vào nước chẳng chìm?

Ngài Bảo Phước liền đáp:

- Nếu là nước lửa thì liền bị cháy chìm.

Nếu tâm vừa nghĩ đến nước, vừa nghĩ đến lửa thì liền bị cháy, bị chìm ngay. Còn ngay nơi đây xoay trở lại tâm không sanh thì nước lửa đâu có cháy chìm đến trong đó được. Đó là quán về lý.

Còn về sự, cũng có nhiều trường hợp những người đi biển sắp bị chìm thuyền, liền niệm Quán Âm cũng được qua khỏi. Đó cũng là có sự có lý. Do lúc gặp nạn lòng hết sức chí thành, niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Âm không có tạp niệm. Niệm đến không có tạp niệm thì tâm thành cảm ứng. Tuy chưa biết tu nhưng lúc đó xoay ngay trở lại, đâu nghĩ đến cái gì khác. Vậy là tâm thanh tịnh, mà tâm thanh tịnh nên mới cảm ứng. Không phải là ai niệm cũng khỏi nạn hết, có người không khỏi là do niệm không có chuyên, không có thành. Rồi cũng do phước của người đó nữa.

 

CHÁNH VĂN:

Bốn là, do con diệt hết các vọng tưởng, tâm không sát hại, khiến cho các chúng sanh vào các nước quỷ, quỷ không thể hại được.

GIẢNG GIẢI:

Do diệt hết các vọng tưởng không còn có tâm sát hại, mà không có tâm sát hại thì quỷ đâu có hại mình. Không có tâm sát thì cảm đến quỷ, nó cũng đâu khơi dậy lòng sát. Thí dụ như người mà có tâm sát khi đi đến gần chim thú là chúng sợ liền chạy, chúng cảm từ trường sát của người đó. Còn người mà có lòng từ thật sự còn cảm đến cọp nữa. Chúng ta do có tâm sát nên khi nhìn thấy cọp liền sợ nó hại mình, mà nó cũng sợ mình hại nó.

Chỗ đó là chỗ chúng ta phải khéo để quán trở lại mà chuyển hóa tâm mình. Đây là do diệt hết vọng tưởng nên không có tâm sát hại. Thêm ý sâu nữa là chỗ hết vọng tưởng thì quỷ làm sao thấy đến được trong đó, đâu có thấy được để mà hại. Đó là điều vô úy thứ tư.

 

CHÁNH VĂN:

Năm là, do con huân cái nghe thành tựu nơi tánh nghe, sáu căn đều tiêu về bản tánh, đồng như cái nghe và cái tiếng, hay khiến cho chúng sanh đương lúc bị hại đao gãy từng đoạn, khiến các binh khí chạm vào thân người như cắt dòng nước, như thổi ánh sáng, bản tánh không hề lay động.

GIẢNG GIẢI:

Thứ năm là do huân cái nghe thành tựu nơi tánh nghe, sáu căn đồng về bản tánh nên cái nghe đồng với cái tiếng, không còn phân biệt cái nghe cái tiếng riêng biệt nữa (tức không đối đãi), như vậy dao gậy cũng đâu làm sao chặt đến trong đó. Đây dứt tâm phân biệt rồi, không còn thấy có căn có trần nên sáu căn đều tiêu về bản tánh. Đó là về lý.

Còn về sự thì cũng có những trường hợp những người gặp nạn đao binh, do tâm hết sức chí thành niệm Quán Âm, lúc đó tâm quá thành khẩn, không còn tạp niệm nào nữa thì cũng cảm được mà qua nạn đao gậy.

 

CHÁNH VĂN:

Sáu là, con huân tập tánh nghe được sáng suốt thấu khắp cả pháp giới, thì các tối tăm không thể được toàn, hay khiến cho chúng sanh, tuy quỷ Dạ-xoa, La-sát, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-giá, Phú-đơn-na v.v... ở gần bên cạnh mà mắt chúng vẫn không thể thấy được.

GIẢNG GIẢI:

Do huân tập tánh nghe sáng thấu khắp pháp giới, cho nên không còn có chỗ bóng tối ẩn núp. Còn quỷ là sống nương chỗ tối, chỗ tối chúng mới nhìn thấy, chúng sống theo cõi âm. Cái tánh nghe mà sáng khắp pháp giới thì bóng tối hết chỗ ẩn, quỷ cũng đâu có chỗ để mà nhìn được là như thế.

Chúng ta giữ được tâm thanh tịnh, sáng suốt, không động niệm thì quỷ cũng không thấy đến được. Cho nên đọc câu chuyện của Ngài Động Sơn, thổ địa tìm không thấy. Hoặc như ông Chủ sự mấy năm lo làm việc chúng, đến chừng sắp chết thấy quỷ vô thường hiện đến, ông mới xin: “Tôi lâu nay bận làm Chủ sự tu không kịp, xin hoãn lại bảy ngày”.

Quỷ nói:

- Cái này tôi không có quyền nhưng với tâm thành khẩn của Ngài thì tôi trình với Diêm vương. Được thì bảy ngày nữa sẽ tới, còn nếu không được thì tôi sẽ bắt ngay.

Trong vòng bảy ngày đó Ngài tu quyết liệt, tâm được vào đạo. Cho nên đến ngày thứ bảy, quỷ đến tìm không thấy, bắt không được. Tâm đâu còn chỗ cho thấy nữa.

Do đó, người biết tu là phải hết sức cẩn thận trên từng tâm niệm. Vừa động niệm tính toán, suy tưởng nhiều quá thì bị ma quỷ thấy. Nếu suy tưởng, tính toán theo chiều tà thì bị quỷ xen vào dẫn chúng ta đi theo chiều tà.

Còn tâm chánh thì tà không vào được, huống nữa là tâm thanh tịnh. Tâm mà thanh tịnh không có động niệm thì quỷ đâu có thấy được mà vào. Khi ngồi thiền tu tập chúng ta phải giữ tâm niệm là vậy đó. Thí dụ như ngồi thiền mà tưởng về tham, mong cầu được cái này cái kia, hoặc nghĩ về sân chẳng hạn. Chính những tâm niệm đó mới chiêu cảm ma quỷ đến, còn tâm chân chánh thì đâu có chỗ nào để vào.

Ở đây cũng vậy, do huân tập được tánh nghe sáng thấu suốt cả pháp giới, không còn có chỗ tối tăm nào để ẩn nữa do đó mà quỷ không thấy được. Ngược lại sanh tâm quỷ thì đi vào cõi quỷ.

Trong nhà thiền có câu chuyện ông Tướng công Vu Địch hỏi Thiền sư Đạo Thông:

 - Thế nào là gió đen thổi thuyền bè trôi vào nước quỷ La-sát?

Dẫn trong kinh Phổ Môn người đi vào biển gặp gió lớn thổi thuyền bè trôi vào nước quỷ La-sát mà niệm Quán Âm thì được qua khỏi, quỷ La-sát không có hại.

Thiền sư Đạo Thông mới lên giọng nói:

- Cái gã khách Vu Địch này! Hỏi việc ấy làm gì?

Là ông tướng mà bị nói xem thường như thế có chịu nổi không?

Ông chạm tự ái, đỏ mặt lên muốn sân. Sư mới chỉ nói:

- Chính cái đó là trôi dạt vào nước quỷ La-sát.

Khỏi tìm đâu xa, động niệm lên thì chính đó là trôi dạt vào nước quỷ La-sát, là bị hại ngay. Nếu tâm thanh tịnh thì đâu có trôi, đâu có bị hại.

Ở đây Dạ-xoa hay Dược-xoa, La-sát đều là những loài quỷ. Dược-xoa tức loài quỷ nam, còn La-sát là quỷ nữ; cả hai đều là quỷ ăn thịt người. Loài Dược-xoa, La-sát này thuộc Vua Trời Đa Văn cai quản (hay Đa Văn Thiên Vương). Còn Cưu-bàn-trà dịch là Ủng Hình hay là Yểm Quỷ, quỷ này thường gây ác mộng hay gây bóng đè, thuộc về Vua Trời Tăng Trưởng cai quản. Tỳ-xá-giá là quỷ ăn tinh khí của người cũng như tinh khí của ngũ cốc, quỷ này thuộc về Vua Trời Trì Quốc cai quản. Phú-đơn-na là quỷ gây những bệnh nhiệt, như bệnh sốt, quỷ này thuộc về Vua Trời Quảng Mục cai quản. Đó là nói qua xuất xứ của những loài quỷ.

Chúng ta học hiểu biết rồi cũng phải khéo luôn giữ gìn thân tâm thanh tịnh, tránh những tư tưởng, vọng tưởng lung tung nhất là những tà tưởng. Đó là niệm nguy hiểm. Tà tưởng liền chiêu cảm quỷ vào.

 

CHÁNH VĂN:

Bảy là, các tiếng hoàn toàn tiêu diệt hết, thấy nghe xoay vào tự tánh, rời các trần cảnh hư vọng, nên hay khiến cho chúng sanh những thứ cùm trói gông xiềng không thể dính vào mình được.

GIẢNG GIẢI:

Các tiếng đều tiêu hết, thấy nghe đã xoay trở lại vào tự tánh, là rời các trần cảnh hư vọng. Như vậy thì gông cùmg làm sao trói được trong đó, bất quá trói là trói thân này thôi, chớ đâu có trói trong đó được. Cho nên nếu khéo thấu được chỗ này, thấy nghe xoay vào tự tánh, rời các trần cảnh hư vọng thì gông cùm không trói được.

Đây cũng có sự có lý. Về sự cũng có những trường hợp do người gặp nạn gông cùm, tâm hết sức chí thành niệm danh hiệu Quán Âm đến không còn tạp niệm, cũng có những cảm ứng mà thoát khỏi gông cùm.

 

CHÁNH VĂN:

Tám là, do con diệt hết tướng âm thanh viên thông tánh nghe, sức từ phát sanh trùm khắp, hay khiến cho chúng sanh trải qua đường hiểm, giặc không thể cướp hại.

GIẢNG GIẢI:

Đây do diệt hết tướng âm thanh, không theo tướng âm thanh rồi viên thông tánh nghe mà sức từ rộng lớn trùm khắp. Tức là không thấy có ai là đối nghịch, dù cho đối trước giặc cướp mà vẫn không mất lòng từ nên gọi là lòng từ rộng khắp, thì giặc đâu có làm hại được.

Chỗ này nếu chúng ta có tu tập về lòng từ thật sự mạnh mẽ rộng khắp, thì có sức mạnh cảm ứng lớn lao. Như Đức Phật, Ngài cũng từng nói: “Khi Ta tu một mình ở trong rừng, do lòng từ mà Ta không thấy sợ sệt”. Chim muông, thú dữ cũng cảm với Ngài mà thành gần gũi. Đây cũng vậy, lòng từ mà rộng khắp chân thật, dù đối trước giặc cướp vẫn không mất lòng từ thì lúc đó giặc cũng đâu có cảm được sự đối nghịch với nó. Còn chúng ta nhiều khi huynh đệ tu ở trong chùa còn thấy đối nghịch, nếu gặp giặc cướp là nó hại ngay thôi.

 

CHÁNH VĂN:

Chín là, do con huân tập tánh nghe rời các trần tướng, sắc không thể cướp hại được, có thể khiến cho tất cả chúng sanh nhiều dâm dục, xa lìa lòng tham dục.

GIẢNG GIẢI:

Huân tập tánh nghe rời các trần tướng, tức là không có theo trần thì sắc đâu có chỗ để bám. Như vậy tham dục làm sao sanh ở trong đó được. Cho nên gọi là khiến chúng sanh xa lìa lòng tham dục.

 

CHÁNH VĂN:

Mười là, do âm thanh của con thuần thục không tướng, căn và cảnh viên dung, không có năng đối và sở đối, có thể khiến cho tất cả chúng sanh giận hờn lìa các nóng giận.

GIẢNG GIẢI:

Âm thanh thuần thục không tiếng là không dính với trần. Rồi căn cảnh viên dung, không có năng sở đối đãi với nhau thì nóng giận bám vào đâu để sanh? Không thấy có năng sở, là không thấy có mình có người, thì lấy ai để mà sân, rồi sân với ai? Tức là xa lìa lòng sân chứ gì nữa.

 

CHÁNH VĂN:

Mười một là, do con tiêu diệt trần tướng, xoay trở lại tánh bản minh thì pháp giới và thân tâm đều như ngọc lưu ly sáng suốt không ngăn ngại, khiến cho những kẻ ngu ngốc u mê tánh chướng, xa lìa hẳn sự si mê tối tăm.

GIẢNG GIẢI:

Đây là tiêu diệt trần tướng xoay về cái bản minh là tánh sáng suốt sẵn có thì si mê chứa chỗ nào? Si mê là theo chỗ tối tăm, còn giờ xoay trở lại tánh bản minh. Trong tánh bản minh thì đâu có chỗ cho si mê ẩn núp. Nên khiến cho những kẻ ngu ngốc, u mê cũng xa lìa sự u mê, tối tăm.

 

CHÁNH VĂN:

Mười hai là, do con tiêu dung các hình tướng, trở về tánh nghe, không động đạo tràng mà lẫn vào thế gian, nhưng không hủy hoại thế giới. Cúng dường chư Phật Như Lai như số vi trần, cùng khắp mười phương làm vị Pháp Vương tử gần bên mỗi Đức Phật, có thể khiến cho những chúng sanh trong pháp giới không có con, muốn cầu con trai, liền sanh được con trai có đủ phước đức trí tuệ.

GIẢNG GIẢI:

Do tiêu dung các tướng xoay về tánh nghe, không động đạo tràng mà lẫn vào các thế giới, tức vào trong các thế giới mà chẳng rời tâm bất động, ở trong động mà không động. Nhưng cũng không hủy hoại các tướng của thế giới, tức vào thế giới nhưng không có rời thật tướng, như vậy là không kẹt có không.

Rồi cúng dường chư Phật nhiều như số vi trần tức là luôn thấy Phật, gặp Phật cúng dường, thì sở nguyện đâu còn ngăn trái; mỗi mỗi đều được tùy thuận cho nên gọi là cầu con trai được con trai.

 

CHÁNH VĂN:

Mười ba là, do sáu căn của con viên thông soi sáng không hai, trùm khắp mười phương thế giới, thành lập Đại Viên Cảnh Không Như Lai Tạng, vâng lãnh pháp môn bí mật của vi trần Như Lai không thiếu sót, có thể khiến cho trong pháp giới những chúng sanh không con gái muốn cầu con gái liền sanh con gái, có tướng tốt đoan chính phước đức, dịu dàng được mọi người yêu kính.

GIẢNG GIẢI:

Sáu căn được viên thông rồi soi sáng không hai, là không còn kẹt bên này bên kia. Trùm khắp thế giới mười phương, thành Đại Viên Cảnh Không Như Lai Tạng. Đại Viên Cảnh là giống như cái gương lớn, Không Như Lai Tạng là Kho Như Lai lìa sạch các tướng, tức như cái gương sáng sạch hết các tướng, không có tướng nào dính được trong đó. Vâng lãnh pháp môn bí mật của vi trần chư Phật, tức không có một mảy bụi nào có thể che mờ thì tâm đâu còn gì để trái nghịch nữa, tức là được tùy thuận vô ngại, cho nên nói là cầu con gái được con gái. Đó là tùy thuận vô ngại.

 

CHÁNH VĂN:

Mười bốn là, trong tam thiên đại thiên thế giới này có trăm ức mặt trời mặt trăng hiện ở thế gian, các vị Pháp Vương tử hiện trong thế gian số lượng có đến sáu mươi hai số cát sông Hằng đều tu theo Phật pháp, nêu gương mẫu giáo hóa chúng sanh, tùy thuận chúnh sanh mà phương tiện và trí tuệ mỗi vị không đồng nhau.

Do con được bản căn viên thông nên phát sanh diệu tánh của nhĩ căn, sau đó thân tâm nhiệm mầu bao trùm cùng khắp pháp giới nên có thể khiến cho chúng sanh chấp trì danh hiệu của con, so với những người chấp trì danh hiệu tất cả các vị Pháp Vương tử số lượng bằng sáu mươi hai số cát sông Hằng kia, phước đức hai bên bằng nhau không sai khác.

Bạch Thế Tôn! Một danh hiệu của con cùng với rất nhiều danh hiệu kia không khác là do con tu tập được tánh viên thông chân thật. Ấy gọi là mười bốn đức thí vô úy đem phước khắp cho chúng sanh.

GIẢNG GIẢI:

Thứ mười bốn này là trì một danh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm thì công đức bằng với trì danh hiệu của các vị Bồ-tát bằng sáu mươi hai số cát sông Hằng trong mười phương.

Trước, Bồ-tát Quán Thế Âm nói được căn bản viên thông nên phát sanh diệu tánh của nhĩ căn, tức không dính kẹt nơi lỗ tai. Mà không kẹt lỗ tai này tức là cũng không kẹt theo danh tự, rồi thân tâm nhiệm mầu bao trùm khắp pháp giới, không giới hạn ở thân tâm này, nên không còn ngăn ngại, không có thấy đây kia sai khác. Do đó trì một danh hiệu thì thông hết nhiều danh hiệu.

Nói trì ở đây không phải là đọc danh hiệu “Nam-mô Quán Thế Âm”, không phải trì như vậy. Mà trì là quán thấu tánh nghe rỗng suốt qua các tên của danh hiệu. Tên này là tên rỗng, là tự tánh không. Như vậy mọi thứ tên đều là rỗng suốt, không hai thì đâu có thấy sai biệt. Trì như vậy thì công đức mới bình đẳng. Còn chỉ niệm thì đâu thấu đến chỗ đó. Nếu người niệm Quán Âm mà thấu được như vậy thì đúng là tâm đã thanh tịnh, sáng suốt, vô ngại được công đức rộng lớn.

Đó gọi là mười bốn đức thí vô úy ban đến khắp chúng sanh được hết lo sợ.

Ở phần trước, ba mươi hai ứng thân của Ngài là trên khắp đồng một từ lực với chư Phật mười phương, ứng hiện ba mươi hai ứng thân để làm lợi ích chúng sanh. Còn mười bốn đức thí vô úy này là đồng một bi ngưỡng cứu khắp chúng sanh. Thông suốt cả trên dưới, thông với chư Phật mà cũng thông với chúng sanh là tâm đâu còn hai, không còn phân biệt Thánh phàm.

Nhưng cũng do chúng sanh có cảm thì có ứng. Lòng từ bi của Bồ-tát rộng khắp, không phân biệt nhưng cũng tùy theo lòng thành của chúng sanh. Nếu tâm chúng sanh chuyên nhất không tán loạn, là có cảm. Còn nếu tâm chúng sanh không có cảm thì Ngài không ứng. Ngài sẵn sàng ứng hết ba mươi hai thân, sẵn sàng chan rải mười bốn đức vô úy cho chúng sanh, nhưng nhiều chúng sanh không được hưởng là do không có cảm.

 

CHÁNH VĂN:

Bạch Thế Tôn! Do con được đạo Vô thượng tu chứng viên thông ấy, nên lại khéo được bốn món Vô tác diệu đức không thể nghĩ bàn.

Một là, do con ban đầu chứng được tánh nghe chí diệu, nơi tâm tánh không còn có tướng năng văn, các sự thấy nghe hiểu biết không còn cách biệt và thành một Bảo Giác Viên Dung Thanh Tịnh, nên con có thể hiện ra rất nhiều hình dung nhiệm mầu, nói ra vô số thần chú bí mật.

Trong đó hoặc hiện ra một đầu, ba đầu, năm đầu, bảy đầu, chín đầu, mười một đầu, như vậy cho đến một trăm lẻ tám đầu, một ngàn đầu, mười ngàn đầu, tám mươi bốn ngàn cái đầu kim cang; hoặc hai tay, bốn tay, sáu tay, tám tay, mười tay, mười hai tay, mười bốn tay, mười sáu tay, mười tám tay, hai mươi tay, hai mươi bốn tay, như thế cho đến một trăm lẻ tám tay, một ngàn tay, mười ngàn tay, tám mươi bốn ngàn cái tay bắt ấn (Mẫu-đà-la); hoặc hai mắt, ba mắt, bốn mắt, chín mắt, như thế cho đến một trăm lẻ tám mắt, một ngàn mắt, mười ngàn mắt, tám mươi bốn ngàn mắt báu thanh tịnh; hoặc hiện từ, hoặc hiện oai; hoặc định hoặc tuệ cứu độ chúng sanh được đại tự tại.

GIẢNG GIẢI:

Đây nói đến bốn món vô tác diệu đức không thể nghĩ bàn.

Ngài Hàm Thị có giải thích bốn món không thể nghĩ bàn là từ cực quả mà được: “Đây là công đức sau khi đã thành tựu đạo quả tột cùng, nên gọi là tu chứng đạo Vô thượng. Đây căn cứ sau khi bi và trí đã viên mãn, đại bi hiển hiện, cơ cảm đồng thời, không do tâm niệm, tự nhiên như vậy, gọi là không thể nghĩ bàn”. Chỗ này không phải là do khởi tâm tạo tác mà có được. Là tự nhiên, không khởi tâm động niệm, tính toán, suy tư, cho nên gọi là không thể nghĩ bàn. Bởi vì đây là do Ngài tu Tam-muội Kim Cang Như Huyễn. Từ đó thấy tất cả pháp như huyễn, không thấy có một pháp thật, vượt qua tất cả âm thanh, trần tướng, dứt hết những tưởng sai biệt, thì đâu còn có gì để mà sợ hãi.

Rồi từ trong đó mới hiện được các thứ tự tại. Là cần hiện nhiều đầu thì hiện nhiều đầu, hiện nhiều tay thì hiện nhiều tay, hiện nhiều mắt cũng hiện nhiều mắt. Tuy nhiên, chỗ này nếu người hiểu theo chữ nghĩa thì sẽ thấy trở ngại? Giả sử hôm nào đó vào đêm tối âm u quý vị đi gặp Ngài ứng thân kiểu ba bốn đầu, nhiều tay v.v..., như vậy chắc là hoảng hồn, sợ hãi có khi bất tỉnh luôn. Hơn nữa, một người mà 84.000 cái đầu, 84.000 cái tay, rồi 84.000 con mắt thì chứa chỗ nào cho hết? Vậy là dưới bàn chân cũng có mắt luôn, nếu vậy khi đi mắt có dính bụi không? Thành ra nếu hiểu theo chữ nghĩa là thấy có chướng ngại.

Bởi vì đây là Ngài chứng được tánh nghe chí diệu, tột cái nhiệm mầu, không còn kẹt nơi căn nên không còn thấy có tướng năng văn, tức không có tướng hay nghe. Vậy là cái nghe không cuộc hạn nơi nhĩ căn, và sáu căn được lẫn thông với nhau, không còn trở ngại nữa, cho nên nói là sự thấy, nghe, hiểu, biết không còn cách biệt.

Lại hợp với bảo giác viên dung thanh tịnh, tức trở về tánh giác không hai nên được diệu dụng tự tại. Trong nhà thiền nói là đại dụng hiện tiền. Nghĩa là sẵn sàng cứu giúp chúng sanh kịp thời, kịp lúc, không bỏ sót ai hết. Hễ cần ứng là ứng liền, không qua suy nghĩ, nên gọi là nhiều tay, nhiều mắt, nhiều đầu là vậy đó. Đúng là điều ngoài sức nghĩ bàn của tình thức phân biệt. Hiểu theo ý đó thì chúng ta thấy không có chướng ngại. Còn nghĩ theo chữ nghĩa là thấy có chỗ ngại.

 

CHÁNH VĂN:

Hai là, do cái nghe, cái suy nghĩ của con thoát ra ngoài sáu trần, như tiếng đi qua tường vách không bị ngăn ngại, nên diệu dụng của con có thể hiện mỗi mỗi thân, tụng mỗi mỗi chú; hình đó, chú đó có thể đem sức vô úy thí cho các chúng sanh. Thế nên cõi nước mười phương như vi trần đều gọi con là vị Thí Vô Úy.

GIẢNG GIẢI:

Vậy cái nghe, cái suy nghĩ đó không bị vật làm ngăn ngại, nên là tự tại hiện thân tụng chú, và đem đến cho chúng sanh sự không lo sợ, không sợ hãi. Chúng ta mà khéo tu tập cũng sẽ được như vậy.

 

CHÁNH VĂN:

Ba là, do con tu tập phát ra căn tánh diệu viên thông thanh tịnh, nên đi qua trong thế giới nào, đều khiến cho chúng sanh xả thân và đồ trân bảo cầu con thương xót.

GIẢNG GIẢI:

Đây là phát ra căn tánh diệu viên thông thanh tịnh không nhiễm cái gì hết. Do đó khi đi qua các thế giới khiến chúng sanh sẵn sàng xả thân, xả của báu để cầu thương xót. Bởi thân này và của báu đâu sánh bằng với chỗ căn tánh diệu viên thông thanh tịnh kia, cái kia quý báu hơn.

 

CHÁNH VĂN:

Bốn là, do con được tâm Phật, chứng quả rốt ráo, có thể từng đem các thứ quý báu cúng dường mười phương Như Lai, cả đến lục đạo chúng sanh trong pháp giới, ai cầu vợ thì được vợ, cầu con thì được con, cầu Tam-muội thì được Tam-muội, cầu sống lâu thì được sống lâu; như thế cho đến cầu Đại Niết-bàn thì được Đại Niết-bàn.

GIẢNG GIẢI:

Đây do được tâm Phật, rồi chứng quả rốt ráo, đã từng đem của báu cúng dường mười phương Như Lai không tiếc, cho nên đâu còn tâm phân biệt chúng sanh đây kia, cũng như đâu còn tâm tham cầu của chúng sanh nữa. Chính vì đã từng xả nên mới khiến cho chúng sanh mong cầu đều được như ý.

Nhưng quan trọng là được tâm Phật rồi thì mới khiến cho chúng sanh cầu gì được đó, cho đến cầu Đại Niết-bàn được Đại Niết-bàn, vậy Ngài là cổ Phật rồi. Đó gọi là bốn công đức không thể nghĩ bàn, ngoài sức suy nghĩ của chúng sanh. Phần này thuộc về quả đức.

 

CHÁNH VĂN:

Kết lại, Phật hỏi về viên thông, con do viên chiếu Tam-muội nơi nhĩ căn mà tâm duyên tự tại, nhân nơi tướng nhập lưu mà được Tam-ma-địa, thành tựu quả Bồ-đề, đó là bậc nhất.

Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai kia khen con khéo được pháp môn viên thông, ở trong đại hội thọ ký cho con hiệu gọi là Quán Thế Âm; do con quán tánh nghe thấu suốt mười phương, nên danh tiếng Quán Thế Âm cùng khắp cả mười phương thế giới.

GIẢNG GIẢI:

Bồ-tát Quán Thế Âm từ nơi nhĩ căn chiếu soi tròn khắp, tuy chiếu soi tròn khắp nhưng vẫn ở trong chánh định, tức không mất mình nên mới được viên thông. Còn chúng ta duyên cái gì dính cái đó thì đâu được chánh định, đâu được tự tại. Đây gọi tâm duyên tự tại không kẹt nơi trần.

Nhân tướng vào dòng, là ngược với các trần cảnh. Trong kinh Kim Cang nói: “Không vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp” tức là vào dòng Thánh. Còn vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là vào sanh tử. Như vậy, nhân tướng vào dòng mà được chánh định, vượt khỏi năng sở, không còn thấy có đây có kia, có mình có người, được quả Bồ-đề, rồi căn trần không còn che chướng, tánh nghe thấu suốt mười phương, được tên là Quán Thế Âm, danh tiếng vang khắp mười phương. Nếu người nghe mà khéo soi lại nơi tự tánh, không theo tiếng theo trần, cũng sẽ cảm thông cùng chư Phật mà cũng thấu đến chúng sanh, là đến chỗ Thánh phàm không hai.

Đây kết lại, Bồ-tát Quán Thế Âm tu về nhĩ căn viên thông được vô lượng công đức không thể nghĩ bàn như vậy. Đến phần Ngài Văn-thù chọn căn viên thông thì Ngài Văn-thù đã chọn nhĩ căn viên thông là căn thích hợp với căn cơ chúng sanh ở cõi này.

Đối với những bậc tu tập sâu dày thì căn nào hay giới nào cũng có thể tu chứng đạo. Nhưng pháp nhĩ căn viên thông này là phương tiện thích hợp để thành tựu chớ không phải là hơn kém. Bởi chúng sanh cõi này thường nhân pháp âm mà được vào đạo, nghe pháp là thuận với nhĩ căn. Nhưng nếu ở cõi khác thì không hẳn. Thí dụ như cõi Phật Hương Tích thì thích hợp với mùi hương, nhân ngửi mùi hương mà tỉnh giác thì vào đạo.

Kết lại, đây dẫn một vài nhân duyên từ nơi Bồ-tát Quán Thế Âm qua cái nhìn trong nhà thiền, nhất là Thiền tông, để giúp cho tất cả khai sáng thêm.

Như có vị tăng hỏi Hòa thượng Trường Sa - Cảnh Sầm:

- Thế nào là Quán Âm?

Ngài Trường Sa đáp:

- Âm thanh, lời nói.

Hỏi: “Thế nào là Quán Âm?” thì Ngài đáp: “Âm thanh, lời nói”. Vậy là sao? Người khéo thì ngay đó thấy được Quán Âm, còn không khéo thì chỉ thấy là âm thanh, lời nói. Với Ngài Cảnh Sầm, thấy Quán Âm không phải là có đầu, có mắt, có tai; mà ngay âm thanh, lời nói là thấy Quán Âm.

***

Có vị tăng hỏi Thiền sư Cư Tố - Minh Chiếu ở Viện Cảnh Thanh:

- Thế nào là cửa Quán Âm nhập lý? (tức cửa Quán Âm vào lý)

Thiền sư Cư Tố đáp:

 - Chim quạ kêu, chim khách hót.

Đó là cửa Quán Âm nhập lý. Ngay khi nghe chim quạ kêu, chim khách hót thì Quán Âm ngồi ngay cửa chứ còn gì nữa. Khéo thì ngay cửa cái nghe đó mà vào lý liền, còn không thì chỉ là nghe tiếng chim quạ, chim khách, thành mờ mịt không hiểu gì.

***

Có vị tăng hỏi Thiền sư Tiếu Nham:

- Thế nào là Tam-muội Quán Âm nghe khắp?

Thiền sư Tiếu Nham đáp:

- Cái lỗ tai người chết.

Làm sao cái lỗ tai người chết mà là Tam-muội Quán Âm nghe khắp? Cho nên đối với các Thiền sư, các Ngài luôn có cái nhìn đặc biệt. Người học cần phải đạt ý quên lời, chứ không thể chấp theo ngôn ngữ. Lỗ tai người sống quá lanh lợi nên không thể đạt được Tam-muội Quán Âm nghe khắp, vừa nghe liền dính trần thì đâu có nghe khắp được. Còn lỗ tai người chết thì nghe cái gì? Nghe mà không chỗ để nghe thì mới nghe khắp, mới thấu được Tam-muội Quán Âm nghe khắp.

Kế, Bồ-tát Văn-thù chọn căn viên thông.

***

 

Kinh - Luật - Luận

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 71299
  • Online: 15