Kinh Đại Bát-Niết-Bàn Trích Giảng - Phần 10: Phẩm Như Lai Tánh

18/07/2024 | Lượt xem: 615

HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng

PHẨM NHƯ LAI TÁNH  

Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Thế Tôn! Hai mươi lăm cõi có ngã cùng chăng?” 

Phật dạy: “Này thiện nam tử! Ngã tức là nghĩa Như Lai tạng. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh tức là nghĩa của ngã. Nghĩa của ngã như vậy từ nào tới giờ thường bị vô lượng phiền não che đậy, vì thế nên chúng sanh chẳng nhận thấy được. 

Phẩm này nói rõ tông chỉ của bộ kinh, chỉ cho chúng ta thấy được Phật tánh hay là pháp thân ngay nơi con người phàm phu. Phật thương xót cố dùng nhiều phương tiện giảng dạy để chúng ta hiểu, nhận cho ra điều đó.

Phật xác nhận tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tức nghĩa của ngã, nhưng từ trước đến giờ thường bị vô lượng phiền não che đậy, nên chúng sanh chẳng nhận thấy được. Như mặt trăng trên trời đêm nào cũng có, nhưng có lúc chúng ta không thấy nên nói không trăng, chứ kỳ thật không phải. Trái đất xoay đúng chiều thì nó hiện, xoay khuất đi thì không thấy nữa. Hoặc ngày rằm mà mây mù mịt nên nói không thấy, không phải thật không. Sở dĩ chúng ta không thấy được Phật tánh vì phiền não che đậy. Nếu phá dẹp được phiền não thì Phật tánh sẽ hiển lộ.

Như cô gái nghèo, trong nhà có nhiều kho tàng vàng ròng, tất cả người nhà không ai biết. Một hôm có người khách lạ khéo biết phương tiện bảo cô gái nghèo: “Nay tôi thuê cô dọn cỏ rác cho tôi.” 

Cô gái liền đáp: “Nếu ông có thể chỉ kho vàng cho tôi, rồi tôi sẽ dọn cỏ rác cho ông.” 

Người khách nói: “Tôi biết cách thức, có thể chỉ kho vàng cho cô.” 

Cô gái nói: “Tất cả người nhà của tôi còn chẳng biết được, huống là ông mà có thể biết!” 

Khách lại nói: “Nay tôi có thể biết chắc chắn.” 

Cô gái nói: “Tôi gấp muốn thấy, ông nên chỉ cho tôi.” 

Người khách liền ở trong nhà cô, đào được kho vàng ròng. Cô gái thấy kho vàng lòng rất vui mừng ngạc nhiên lạ lùng, kính trọng người khách. 

Này thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, tất cả chúng sanh chẳng nhận thấy được. Khác nào cô gái nghèo có kho vàng mà chẳng biết. Hôm nay ta chỉ bày Phật tánh sẵn có của tất cả chúng sanh hiện bị các phiền não che đậy. Như cô gái nghèo kia trong nhà sẵn có kho vàng nhưng không thấy được. Hôm nay đức Như Lai chỉ bày kho báu giác tánh cho chúng sanh, đây chính là Phật tánh. Chúng sanh thấy được tánh này lòng rất vui mừng quy ngưỡng đức Như Lai.

Người khách khéo biết phương tiện dụ cho Như Lai. Cô gái nghèo dụ cho lượng chúng sanh. Kho vàng ròng dụ cho Phật tánh. 

Phật dùng ví dụ thật hay. Như cô gái có kho vàng trong nhà mà không biết, có người biết được chỉ cho, cô đào lên được kho vàng, mừng quá. Kho vàng dụ cho Phật tánh sẵn có, đất dụ cho phiền não che đậy, cô gái chỉ cho chúng ta. Chúng ta có Phật tánh mà không thấy, Phật dùng mọi phương tiện dạy tới nhắc lui, chúng ta mới biết mới tin. Khi nào chúng ta dẹp hết sạch phiền não thì Phật tánh hiển lộ, hoặc người nào khéo léo thì ngay bây giờ cũng có thể thấy Phật tánh hiển lộ.

Này thiện nam tử! Ví như cô gái sanh một trai. Trẻ này mắc bệnh, cô gái buồn rầu tìm y sĩ. Y sĩ đến xem bệnh, dùng ba thứ bơ, sữa, đường phèn hiệp lại bảo cho đứa trẻ uống. Y sĩ dặn cô gái, đứa trẻ sau khi uống thuốc chớ cho nó bú, phải chờ thuốc tiêu hóa, rồi mới được cho bú. 

Cô gái liền lấy chất đắng thoa trên vú rồi bảo đứa bé: “Vú của mẹ đã thoa thuốc độc, con chớ chạm đến.”

Đứa bé đói khát muốn bú, nhưng nghe mùi đắng trên vú bèn chẳng dám gần. Thời gian sau thuốc uống đã tiêu hóa, người mẹ lấy nước rửa sạch vú mình, gọi con đến bú. 

Lúc đó đứa trẻ mặc dầu đói khát nhưng nhớ mùi đắng nên chẳng dám đến bú. 

Người mẹ bảo: “Vì con uống thuốc nên mẹ lấy chất đắng thoa trên vú. Thuốc con uống đã tiêu hóa, vú của mẹ cũng đã rửa sạch, giờ đây con có thể đến bú không hại gì.” 

Đứa trẻ nghe mẹ bảo lần lần đến bú. 

Này thiện nam tử! Đức Như Lai cũng vậy. Vì độ tất cả chúng sanh nên dạy tu pháp vô ngã. Nhờ tu pháp đó dứt hẳn tâm chấp ngã, được nhập Niết-bàn. Vì trừ những vọng kiến trong đời nên thị hiện pháp xuất thế gian. Lại chỉ rõ quan niệm chấp ngã của người đời là hư vọng chẳng phải chân thật, nên dạy tu pháp vô ngã để được thân thanh tịnh. 

Như cô gái kia chữa bệnh cho con, nên lấy chất đắng thoa trên vú. Cũng vậy, đức Như Lai vì dạy tu pháp không nên nói các pháp đều không có ngã. 

Như cô gái kia rửa sạch vú rồi kêu con đến bú. Cũng vậy, đức Phật hôm nay nói Như Lai tạng. Vì thế nên các Tỳ-kheo chớ có sanh lòng kinh sợ. 

Như đứa trẻ kia nghe mẹ kêu lần lần đến bú. Cũng vậy, các Tỳ-kheo nên tự phân biệt Như Lai tạng, chẳng được, chẳng có.

Người mẹ có đứa con bị bệnh, thầy hốt thuốc cho uống, bảo rằng uống thuốc mà bú sữa vào thì không tiêu, buộc lòng người mẹ phải dùng phương tiện thoa chất đắng vào ngực mình, đứa con hoảng sợ nên không bú nữa. Khi thấy con có đủ khả năng tiêu hóa được, người mẹ rửa hết thuốc đắng, đứa con từ từ bú được sữa.

Người con dụ cho hàng Thanh văn, trước kia mê lầm chấp ngã là thật, buộc lòng Phật phải nói vô ngã. Khi tin hiểu được lý vô ngã, phá được chấp ngã phàm phu trước, Phật mới nói ngã. Nhưng nói tới ngã thì các thầy thấy lạ hoảng sợ, nên Phật an ủi các ông đừng sợ ta nói ngã là chỉ lẽ thật, vô ngã lúc trước chỉ là phương tiện.

Tóm lại, ví dụ thứ nhất Phật chỉ tất cả chúng sanh sẵn có pháp thân, như trong nhà cô gái có vàng, ví dụ thứ hai Phật phương tiện nói vô ngã để phá chấp phàm phu. Vô ngã chỉ là phương tiện trừ bệnh không phải là cứu cánh, đến khi hết bệnh thì ngài chỉ thẳng ngã.

Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Thế Tôn! Thật không có ngã. Vì lúc đứa trẻ mới sanh không hiểu biết. Nếu là có ngã thời ngày mới sanh lẽ ra liền có hiểu biết. Do nghĩa này nên định biết là không ngã. 

Nếu quyết định có ngã, sau khi đã thọ sanh, lẽ ra không chết mất. Nếu tất cả chúng sanh đều có Phật tánh là thường trụ, lẽ ra không hư hoại. Nếu là không hư hoại, sao lại có Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, Chiên-đà-la, súc sanh v.v... sai biệt nhau. Hiện nay thấy các thứ nghiệp duyên chẳng đồng, các loài đều riêng khác. Nếu quyết định có ngã, thời tất cả chúng sanh lẽ ra không hơn kém.

Do những nghĩa trên đây nên quyết định biết Phật tánh chẳng phải là pháp thường trụ. 

Nếu cho rằng Phật tánh quyết định là thường trụ, thời do duyên gì lại nói có sát sanh, trộm cướp, tà dâm, lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ, tham lam, sân khuể, tà kiến. 

Nếu ngã tánh là thường trụ, cớ gì sau khi uống rượu lại say mê. 

Nếu ngã tánh là thường trụ, thời kẻ mù lẽ ra thấy sắc, kẻ điếc lẽ ra nghe tiếng, kẻ câm lẽ ra nói được, người què lẽ ra có thể đi. 

Nếu ngã tánh là thường trụ, lẽ ra chẳng còn tránh hầm, lửa, nước lụt, thuốc độc, dao gươm, kẻ ác, thú dữ. 

Nếu ngã là thường trụ, thời những việc đã từng nghe thấy lẽ ra chẳng quên. Nếu chẳng quên cớ gì lại nói, tôi đã từng thấy người này ở chỗ đó. 

Nếu ngã là thường, thời lẽ ra chẳng nên có niên thiếu, tráng niên, lão thành v.v... Lẽ ra chẳng nên có thạnh, suy, mạnh, yếu cùng nhớ đến việc đã qua. 

Nếu ngã là thường, thời nó ở chỗ nào? Nó ở trong nước mũi, nước miếng, hay ở trong các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng ư! 

Nếu ngã là thường, lẽ ra nó phải khắp trong thân, như dầu mè không chỗ hở trống. Nếu như vậy lúc chặt đứt thân thể, thời ngã đó lẽ ra cũng bị đứt!” 

Bồ-tát Ca-diếp bác thuyết về Ngã, ngài nói rằng không có ngã nên đứa nhỏ lúc mới sanh không hiểu biết. Nếu có ngã thì ngày mới sanh lẽ ra liền hiểu biết. Vậy mà phải chờ nó lớn, người ta dạy thì mới hiểu biết, cho nên không có ngã.

Nếu như có ngã thì sau khi đã thọ thân lẽ ra không chết mất, vì ngã còn hoài. Nếu như thân chết mất thì quyết định không có ngã.

Nếu có ngã, Phật tánh quyết định là thường trụ thì do nhân duyên gì lại nói có sát sanh, trộm cắp, tà dâm, lưỡng thiệt, ác khẩu...

Nếu là thường trụ thì trước sau như một không có đổi dời, tại sao lại có những tánh xấu, những tội lỗi?

Nếu như ngã thường trụ thì kẻ mù có thể thấy, kẻ điếc có thể nghe, kẻ câm có thể nói, người què lẽ ra có thể đi.

Nếu ngã tánh mà thường trụ thì chẳng tránh hầm, lửa, nước lụt, thuốc độc... Thường trụ hoài thì có gì mà hại được?

Nếu ngã thường trụ thì những việc từng nghe lẽ ra không quên, vì ngã còn hoài nên cái nghe phải còn hoài.

Nếu ngã thường trụ thì không có lớn nhỏ, cứ ở một mực hoài. 

Nếu ngã thường trụ thì ở chỗ nào trong thân mình, chỗ nào là ngã?

Đó là những nghi vấn về ngã mà ngài Ca-diếp nêu lên để Phật giải thích.

Phật bảo Ca-diếp Bồ-tát: “Thiện nam tử! Ví như nhà vua có đại lực sĩ. Trên trán lực sĩ gắn hột châu kim cương. Lực sĩ này cùng người đánh vật. Hột châu kim cương bị đầu kẻ địch đụng lún khuất trong da. Nơi đó thành vết thương. Liền nhờ y sĩ cứu chữa. Y sĩ tài giỏi xem vết thương biết là do hột châu lún vào ở khuất dưới da. Y sĩ hỏi lực sĩ: “Châu kim cương trên trán của ông đâu rồi?” 

Lực sĩ kinh hãi đáp: “Hột châu trên trán của tôi đã mất rồi ư? Nó rơi rớt ở đâu?” Nói xong lo rầu khóc lóc. 

Y sĩ an ủi: “Nay ông chẳng nên buồn khổ. Vì lúc ông đánh vật, hột châu lún vào ở ẩn dưới da, bóng nó hiện ra nơi ngoài. Lúc các ông vật đánh nhau, lòng quá giận tức, nên hột châu lún vào trán mà chẳng hay biết.” 

Lực sĩ chẳng tin lời của y sĩ, nghĩ rằng: Nếu hột châu ở dưới da, máu mủ chảy tuôn cớ sao hột châu chẳng trồi lên. Còn nếu hột châu ở trong gân, lẽ ra không thể thấy. Hoặc giả y sĩ gạt gẫm ta chăng? 

Bấy giờ y cầm gương soi trên mặt lực sĩ, hột châu kim cương hiện ánh sáng trong gương. Lực sĩ nhìn thấy, ngạc nhiên mừng rỡ.

Phật giải thích qua ví dụ một lực sĩ trên trán có gắn hôt kim cương. Khi hai lực sĩ đánh nhau, húc nhau thì viên ngọc lún sâu trong da thịt cho nên không thấy, tưởng mất. Vị y sĩ coi biết hột ngọc lún trong da, lực sĩ không tin. Khi y sĩ đem gương lại soi lực sĩ thì thấy hôt châu ánh ra, mới tin là mình vẫn còn ngọc.

Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh cũng vậy. Vì không được gần gũi bậc thiện tri thức, dầu có Phật tánh mà đều không nhận thấy. Bị tham, sân, si che đậy. Vì thế nên đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-la, Chiên-đà-la, Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà. Sanh vào trong các giòng đó, nhân tâm tưởng mà gây ra các thứ nghiệp duyên. Dầu được thân người, nhưng phải điếc, đui, câm, ngọng, què, thọt. Thọ các quả báo trong hai mươi lăm cõi. Vì tham, sân, si che lấp bản tâm, nên chẳng biết Phật tánh. Như lực sĩ kia hột châu vẫn ở trong thân mà hô đã mất. 

Cũng vậy, chúng sanh chẳng biết gần gũi thiện tri thức, chẳng biết bảo tạng Như Lai, nên tu học vô ngã. Như hạng chẳng phải bậc thánh, dầu nói là có ngã, nhưng lại chẳng biết chân tánh của ngã. 

Hàng đệ tử của ta cũng giống như vậy, vì chẳng biết gần gũi bậc thiện tri thức, nên tu học vô ngã mà chẳng biết chỗ thật của vô ngã. Còn chẳng tự biết chân tánh của vô ngã, huống lại có thể biết chân tánh của ngã. 

Này thiện nam tử! Đức Như Lai nói các chúng sanh đều có Phật tánh, ví như y sĩ chỉ hột châu kim cương cho lực sĩ, các chúng sanh này bị vô lượng phiền não che đậy chẳng biết Phật tánh. Nếu dứt hết phiền não, bây giờ mới đặng chứng biết rõ ràng. Như lực sĩ thấy hột châu trong gương sáng. 

Tạng Như Lai vô lượng chẳng thể nghĩ bàn như vậy. 

Qua ví dụ trên, Phật chỉ rõ do tham sân si che lấp nên Phật tánh bị ẩn. Hột ngọc là dụ cho Phật tánh, nổi nóng đánh nhau dụ cho phiền não mê lầm, khiến chúng ta bị che lấp mất Phật tánh. Sự che lấp đó dưới con mắt phàm tục thì tưởng là mất, chứ thật không mất. Lực sĩ thấy không có ngọc kinh hãi tưởng là mất, nhưng y sĩ thì biết không mất, đưa gương cho thấy. Cũng vậy, Phật dùng lời lẽ khéo léo giải thích cho chúng ta thấy được cái bóng của Phật tánh để đủ niềm tin, cũng như lực sĩ kia thấy được ánh hột châu vui mừng không còn phiền não, không còn lo mất nữa.

Phật tánh ai ai cũng có, nếu phiền não không che đậy thì sẽ hiện rõ ràng.

Này thiện nam tử! Ví như núi Tuyết có một vị thuốc tên là “Dược vị”. Thuốc đó rất ngọt, ở dưới lùm bụi rậm, người không thấy được. Có người nghe mùi thuốc liền biết chỗ đó chắc có thuốc ấy. Thuở trước có vua Chuyển luân ở nơi núi Tuyết này đặt những bộng cây để tiếp lấy thuốc. Lúc thuốc đó chín thời từ đất chảy ra chứa vào trong bộng cây, mùi vị thuốc ngọt ngon. Sau khi vua đã băng, thời thuốc đó hoặc chua, hoặc mặn, hoặc ngọt, hoặc đắng, hoặc cay, hoặc lạt, tùy địa phương của thuốc sanh ra mùi vị đều khác nhau. Nhưng vị thật của thuốc đọng ở nơi núi như mặt trăng tròn. Người phàm ít phước dầu có đào xới chỉ luống khốn khổ mà không thể được. Lúc có Thánh vương ra đời, vì phước lớn của vua, liền đặng vị thật của thuốc.

Này thiện nam tử! Mùi vị tạng Như Lai cũng như vậy, bị các rừng bụi phiền não che đậy, chúng sanh mê mờ chẳng thấy được. 

“Dược vị” trên kia dụ cho Phật tánh. Bởi các phiền não nên sanh ra các thứ mùi vị sai khác như là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, trời, người, nam, nữ, Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà v.v... 

Ví dụ thứ hai, thuốc quý ở trong núi Tuyết nhưng bị bụi lùm cây cối che rất khó tìm, chỉ có vua mới biết tìm trong bộng cây để lấy. Đến khi vua chết không ai biết cách tìm lấy, thuốc bị biến chất ngọt, mặn, đắng, cay. Tuy thuốc biến ra nhiều chất nhiều vị nhưng bản chất thuốc vẫn không mất. Chất thuốc không mất dụ cho Phật tánh bởi do phiền não che đậy nên có nhiều loại chúng sanh: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trời, người... Dù có lăn lộn trong sáu đường mà Phật tánh không bao giờ mất.

Ví dụ hột châu ẩn trong da do đánh nhau, Phật trả lời cho câu hỏi Phật tánh có tại sao chúng sanh không thấy? Ví dụ vị thuốc nằm trong lùm bụi biến ra nhiều vị, để trả lời câu hỏi thứ hai, Phật tánh có, lẽ ra khắp nơi phải đồng nhất, tại sao lại sanh ra có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh? Vì không trở về với Phật tánh, nên tùy nghiệp phải thọ luân hồi, tùy phước tội nặng nhẹ mà có hình tướng sai biệt.

Phật tánh hùng mãnh không thể hoại, thế nên không ai có thể sát hại được. Nếu sát hại được thời Phật tánh dứt, nhưng Phật tánh trọn không thể dứt, không bao giờ tánh có thể dứt được. 

Như tánh của ngã tức là tạng Như Lai, không có gì phá hoại, đốt cháy được tánh ấy. Dầu không có thể phá hoại, nhưng chẳng thấy được. Nếu chứng đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mới thấy được tánh. Do cớ đó nên không ai có thể sát hại được.” 

Đây là câu hỏi phụ: Phật tánh có thì lẽ ra ngài không bị giết hại, nếu như thân này bị giết hại chết đi thì lẽ ra Phật tánh cũng chết theo. Phật nói do Phật tánh bình đẳng, không thể hư hoại vì thế nên không ai sát hại được. Nếu sát hại được thì Phật tánh dứt, nhưng Phật tánh trọn không dứt.

Kế đó là trả lời câu hỏi Nếu Phật tánh có thì không có gì hại được, vì là thường trụ, Phật nói ngã tức là tạng Như Lai không có gì phá hoại đốt cháy được. Dù không thể phá hoại, nhưng chẳng thấy được, nếu chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mới thấy được Phật tánh. Do đó nên không ai có thể sát hại. 

Ở trên ngài Ca-diếp hỏi: Tại sao Phật tánh thường trụ mà mình sợ lửa sợ nước? Phật tánh là thường trụ bất hoại, nước lửa... cái gì cũng không thể hại được. Nếu có hại chỉ là hại thân giả tạm, chứ đâu có hại Phật tánh.

Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nếu không ai sát hại được, thời lẽ ra không có nghiệp bất thiện?” 

Phật nói: “Này Ca-diếp! Thật có sát sanh. Vì Phật tánh của chúng sanh ở trong thân ngũ ấm, nếu sát hại ngũ ấm, gọi là sát sanh, đã có sát sanh, thời đọa ác thú. 

Do nhân duyên của nghiệp mà có Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, Chiên-đà-la, nam, nữ v.v... hai mươi lăm cõi sai khác lưu chuyển trong dòng sanh tử. 

Người chẳng phải bậc thánh vọng chấp tướng của ngã là lớn hay nhỏ, bằng hột cỏ, hoặc bằng hột gạo, hột đậu, nhẫn đến bằng ngón tay cái. Họ vọng sanh các thứ tưởng tượng như vậy. Tướng của vọng tưởng không có chân thật. 

Bồ-tát Ca-diếp hỏi theo hướng khác. Ngài nói nếu Phật tánh không thể giết được thì không có tội sát sanh, vì đâu có giết ai mà sát sanh, không sát sanh thì không gọi là tội ác, không có nghiệp báo.

Phật trả lời thật có sát sanh. Vì Phật tánh chúng sanh ở trong thân ngũ ấm, nếu sát hại thân ngũ ấm thì gọi là sát sanh, đã có sát sanh thì phải đọa ác thú. Tuy rằng không giết được Phật tánh mà vẫn phạm tội sát sanh.

Phật giải thích do nơi duyên nghiệp mà có các loại Bà-la-môn... di chuyển trong vòng sanh tử thuộc hai mươi lăm cõi. Người đâu phải là bậc thánh, chấp các tướng ngã dù lớn dù nhỏ đều là vọng tưởng không thật. Chỉ có những bậc thánh thấy được Phật tánh, thấy được pháp thân, nói ngã mới đúng. Còn chưa phải thánh mà nhận ngã to nhỏ gì cũng không đúng.

Tướng ngã xuất thế gian, gọi là Phật tánh. 

Nhận lấy ngã này, gọi là rất lành. 

Này thiện nam tử! Ví như có người giỏi biết kho báu dưới đất, liền lấy cuốc bén đào đất, thẳng đến đá bàn, cát, sỏi, có thể đào qua không khó, chỉ đến lớp kim cương thời không thể xoi thấu. 

Luận về chất kim cương, tất cả dao búa không thể làm bể. Phật tánh của chúng sanh cũng lại như vậy, tất cả nhà biện luận, thiên ma Ba-tuần, cho đến các hàng trời, người, không thể phá hoại. 

Tướng ngũ ấm là hữu vi, tướng hữu vi dụ như đá, cát, sỏi, có thể đào, có thể xoi. Phật tánh dụ như kim cương, không thể phá hoại được. 

Do nghĩa này, nên phá hoại thân ngũ ấm thời gọi đó là sát sanh. 

Này thiện nam tử! Nên biết quyết định rằng Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn như vậy.

Ngã xuất thế gian là Phật tánh, nhận lấy ngã này gọi là rất lành. Bởi vì ngã chỉ cho pháp thân, không bị luân hồi sanh tử. Ngã của chúng ta là ngã thế gian, gốc của tội lỗi. Nhận được ngã xuất thế gian, đó mới là gốc để thành Phật chứng quả, hai cái khác nhau.

Phật ví dụ, người biết có kho báu dưới đất, dùng cuốc bén mà đào, xuyên qua những lớp đất cát đá sỏi, nhưng không đào thấu lớp kim cương. Lớp kim cương dụ cho Phật tánh, đất cát sỏi đá dụ cho thân ngũ uẩn. Thân ngũ uẩn có thể bị phá hoại mà Phật tánh không bị phá hoại. Các nhà biện luận hay ngoại đạo, dù có hay giỏi cũng không bài bác được thuyết Phật tánh của Phật.

Này thiện nam tử! Kinh Đại thừa phương đẳng như chất cam lồ, cũng có lúc như thuốc độc. 

Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Do nhân duyên mà đức Như Lai nói kinh Đại thừa phương đẳng như chất cam lồ, cũng có lúc như thuốc độc.” 

“Này thiện nam tử! Nay ông muốn biết nghĩa chân thật của tạng Như Lai chăng?” 

Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Tôi nay thật muốn biết nghĩa của tạng Như Lai.” 

Bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng: 

Hoặc có người uống cam lồ

Hại thân mạng mà chết sớm.

Hoặc có người uống cam lồ

Thêm tuổi thọ sống được lâu. 

Hoặc uống thuốc độc được sống.

Có người uống độc mà chết. 

Trí vô ngại như cam lồ,

Đó chính là kinh Đại thừa. 

Kinh điển Đại thừa như vậy

Cũng gọi là chất thuốc độc

Như bơ, đề hồ, vân vân, 

Nhẫn đến các thứ đường phèn

Uống vào tiêu hóa là thuốc

Chẳng tiêu hóa thời thành độc. 

Phật lại nói kinh Đại thừa phương đẳng như nước cam lồ, cũng có lúc như thuốc độc. Bồ-tát Ca-diếp hỏi do nhân duyên gì mà Như Lai nói kinh Đại thừa phương đẳng như nước cam lồ, cũng có lúc như thuốc độc. Phật đọc bài kệ để giải thích.

Tại sao cùng là chất cam lồ mà có người uống được sống lâu, có người uống lại chết sớm? Vì tiêu hóa được hay không tiêu hóa được. Cũng như thuốc bổ đáng lẽ uống vào được sống lâu thêm tuổi thọ, nhưng có những bệnh không cần thuốc bổ mà uống vào thì hại thêm. Như vậy thuốc bổ có lợi cho người cần mà hại cho người chưa cần, có những độc dược người uống vào chết, nhưng người biết có thể dùng để trị bệnh lại sống khỏe. Trên thế gian này không có gì cố định, căn bản là biết dùng đúng chỗ, hợp thời hợp cơ. Kinh điển Đại thừa cũng thế. Người nghe tiêu hóa không nổi thì cho rằng lời Phật nghe không hiểu, khó quá tu gì được, rồi thối chí, đó là cam lồ biến thành độc dược. Còn người nào nghe mà tiêu hóa được, thấy hay, cao siêu, thì chính kinh Đại thừa là cam lồ. Nên pháp đúng với trình độ của người thì có lợi, ngược lại không đúng thì biến thành hại. Đó là điều chúng ta nên chú ý, pháp không hợp cơ sẽ trở thành bệnh.

Kinh Đại thừa cũng như vậy,

Nơi người trí, là cam lồ, 

Kẻ ngu chẳng biết Phật tánh

Nghe Đại thừa thành thuốc độc.

Với bậc Thanh văn, Duyên giác

Pháp Đại thừa là cam lồ. 

Cũng như trong các mùi vị

Chất sữa là hơn tất cả. 

Những người siêng năng tinh tấn

Nhờ nương nơi pháp Đại thừa

Đặng đến nơi đại Niết-bàn

Thành bậc vua trong loài người. 

Người trí nghe nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, mọi người đều có khả năng thành Phật thì rất sung sướng, nỗ lực tiến lên. Nhưng với kẻ ngu nghe nói ai cũng có Phật tánh thì ỷ lại, thấy dễ dàng nên không muốn nỗ lực tu: Ai cũng có Phật tánh thì trước sau cũng sẽ thành Phật, có mất đâu mà sợ, cần gì tu gấp! Như vậy nói “có Phật tánh” đối với người đó trở thành độc dược, không có lợi cho sự tu hành.

Với bậc Thanh văn Duyên giác, pháp Đại thừa là cam lồ, vì đã hấp thụ hết những giáo pháp của Nhị thừa, chuyển qua Đại thừa thấy mới mẻ cao siêu nên thích thú.

Pháp Đại thừa này hơn tất cả, cũng như trong những thức ăn chất sữa là hơn hết. Ở Ấn Độ sữa là thức ăn tối thượng, các thức ăn khác không bổ dưỡng và nhiều mùi vị như sữa.

Những người siêng năng tinh tấn nhờ pháp Đại thừa đến được Niết-bàn, thành bậc vua trong loài người. Nếu người tiến đến Niết-bàn thì là người tối thắng trong loài người, nên nói là bậc vua.

Chúng sanh chứng biết Phật tánh

 Được chất cam lồ vô thượng 

Thời không sanh, cũng không tử

Như Ca-diếp Bồ-tát thảy. 

Này Ca-diếp ông nên phải

Khéo phân biệt pháp tam quy,

Thật tánh của pháp tam quy

Thời là chân tánh của ngã. 

Nếu có thể gẫm xét kỹ

Tánh của ngã có tánh Phật. 

Nên biết những người như vậy

Đặng chứng nhập tạng Như Lai.

Biết ngã cùng biết ngã sở

Người này đã được xuất thế.

Tánh Phật, Pháp, Tăng, Tam bảo

Là bậc đệ nhất vô thượng. 

Kệ trên đây của ta nói 

Phật tánh đó nghĩa như vậy. 

Nếu tất cả chúng ta ai cũng nhận biết được Phật tánh nơi mình, thì được chất cam lồ vô thượng không còn sanh tử, đồng với Bồ-tát Ca-diếp trong hội này. Đó là điểm quan trọng. Sở dĩ chúng ta sanh tử là vì chấp cái sanh diệt là mình, khiến phải diệt sanh sanh diệt đời đời kiếp kiếp không ngừng. Kinh điển Đại thừa chỉ cho chúng ta nhận ra được nơi mình có Phật tánh chẳng sanh chẳng diệt. Nếu nhận ra được và sống với Phật tánh chẳng sanh diệt thì không còn sanh tử, như Bồ-tát Ca-diếp.

Đồng thể Tam bảo là gì? Phật bảo là tánh giác, Pháp bảo là chỉ cho pháp thân bất sanh bất diệt, Tăng bảo tức là Phật pháp không lìa nhau, đó gọi là Tam bảo. Tánh giác là chân ngã, cho nên nói khi biết quy y đúng với thật tánh của Tam bảo sẽ thấy được chân tánh của ngã.

Tứ đại ngũ uẩn là sanh diệt, nhưng thể của ngũ uẩn tứ đại bất sanh bất diệt, cho nên ở đây dùng chữ Tánh. Nhận ra tánh của ngã tức thấy được tánh của Phật. Người nhận được là người vào được tạng của Như Lai.

Ngã là mình; ngã sở là sở hữu của mình, cảnh thuộc về mình; hay ngã là chỉ cho cái năng chấp, ngã sở chỉ cho cái bị chấp. Người biết rành rõ ngã và ngã sở thì người đó qua được khỏi vòng thế tục. Người nào đạt được tánh Tam bảo đó là người bậc nhất vô thượng.

Kệ trên đây nói nghĩa của Phật tánh. Nghĩa là chỉ Tam bảo ngay tự tâm, nhận được như vậy thì thấy được Phật tánh.

Ca-diếp Bồ-tát nói kệ bạch Phật:

Tôi nay đều chẳng biết

Quy y nơi Tam bảo 

Thế nào sẽ về đến

Vô thượng vô sở úy? 

Chẳng biết chỗ Tam bảo

Thế nào là vô ngã? 

Quy y Phật thế nào

Mà đặng nơi an ổn?

Quy y Pháp thế nào

Xin Phật vì tôi nói.

Thế nào đặng tự tại?

Thế nào chẳng tự tại?

Quy y Tăng thế nào 

Lại đặng lợi vô thượng?

Thế nào thuyết chân thật

Đời sau thành Phật đạo?

Đời sau nếu chẳng thành 

Thế nào quy Tam bảo?

Nay tôi không dự biết

Nên tuần tự quy y. 

Thế nào chưa thai nghén

Mà tưởng sẽ sanh con? 

Nếu biết ở trong thai

Thời gọi là có con,

Con nếu ở trong thai 

Chắc sẽ sanh chẳng lâu

Đây gọi là nghĩa con, 

Nghiệp chúng sanh cũng vậy.

Như lời Phật đã nói 

Người ngu chẳng biết được.

Do vì họ chẳng biết 

Luân hồi ngục sanh tử

Giả danh Ưu-bà-tắc 

Chẳng biết nghĩa chân thật.

Xin Phật rộng phân biệt

Dứt trừ lưới nghi cho. 

Đức Phật trí huệ lớn

Xin thương vì phân biệt

Xin nói nơi Như Lai

Tạng báu rất bí mật. 


Bồ-tát Ca-diếp nghi không biết quy y Tam bảo thế nào để đến chỗ vô thượng vô sở úy. Những câu hỏi của ngài không ngoài nghĩa quy y. Quy y làm sao thì được an ổn, quy y làm sao thì được tự tại, quy y làm sao cho được lợi ích vô thượng, quy y làm sao cho đời sau mình được thành Phật... Tóm lại, ngài hỏi làm sao quy y để đạt được kết quả viên mãn.

- Ca-diếp ông nên biết: 

Ta nay sẽ vì ông

Khéo mở tạng bí mật 

Cho ông đặng dứt nghi,

Nay phải hết lòng nghe: 

Ông trong hàng Bồ-tát

Thời đồng một danh hiệu

Với đức Phật thứ bảy. 

Trong bảy đức Phật đời Hiền kiếp này, có đức Phật thứ bảy hiệu Ca-diếp. Ông cũng tên Ca-diếp đồng hiệu với Phật.

Người quy y nơi Phật

Thật là Ưu-bà-tắc

Trọn chẳng lại quy y 

Những thiên thần nào khác.

Người quy y nơi Pháp

Thời lìa sự sát hại.

Người quy y thánh tăng

Chẳng cầu các ngoại đạo,

Quy Tam bảo như vậy

Thời đặng vô sở úy.

Người quy y với Phật rồi, không được quy y với những thiên thần nào khác. Người quy y Pháp rồi dứt hết sự sát hại. Người quy y thánh tăng, chẳng cầu các ngoại đạo. Quy y Tam bảo như vậy không còn gì phải sợ sệt. Đây là sự quy y chân chánh của Ưu-bà-tắc.

- Ca-diếp bạch Phật rằng:

Tôi cũng quy Tam bảo

Đây gọi là đường chánh

Cảnh giới của chư Phật.

Tướng Tam bảo bình đẳng

Thường có tánh trí huệ

Tánh ngã và tánh Phật

Không hai không sai khác.

Đạo này Phật khen ngợi

Thẳng đến chỗ ở an

Cũng gọi chánh biến tri

Nên được Phật tán thán.

Tôi cũng đến Phật đạo

Của đức Phật ngợi khen

Là cam lồ tối thượng

Các cõi chỗ không có.


Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật, ngài quy y Tam bảo đây là đường chánh, cảnh giới của chư Phật, tướng của Tam bảo bình đẳng thường có tánh trí tuệ. Ngài nhìn thấy Phật tánh và ngã tánh không hai không khác. Chỗ đó là chỗ an ổn nhất mà chư Phật thường khen ngợi. Chỉ có đi đến Phật đạo là chỗ cam lồ tối thượng, còn các nơi khác không có được.

Đức Phật bảo Ca-diếp Bồ-tát: “Này thiện nam tử! Nay ông chẳng nên như hàng Thanh văn, cùng hàng phàm phu phân biệt ngôi Tam bảo. Nơi Đại thừa đây không có tướng tam quy sai khác, vì trong Phật tánh bèn có Pháp và Tăng. Nhân muốn hóa độ hàng Thanh văn và phàm phu, nên phân biệt nói tướng tam quy sai khác.

Này thiện nam tử! Nếu muốn tùy thuận pháp thế gian, thời nên phân biệt có ba pháp quy y.

Này thiện nam tử! Bồ-tát nên suy nghĩ như thế này, nay thân của ta đây quy y nơi Phật, nếu chính nơi thân này đặng thành Phật đạo, đã thành Phật rồi, chẳng nên cung kính lễ bái cúng dường các đức Thế Tôn. Vì chư Phật đều bình đẳng. Khắp vì chúng sanh mà làm chỗ quy y. Nếu muốn tôn trọng pháp thân xá-lợi, thời nên lễ kính tháp miếu của chư Phật, vì muốn hóa độ chúng sanh, cũng làm cho chúng sanh đối với thân của ta tưởng là tháp miếu mà lễ bái cúng dường. Những chúng sanh đó, lấy pháp thân của ta làm chỗ quy y.

Tất cả chúng sanh đều nương theo pháp ngụy chẳng chân thật, ta sẽ tuần tự vì chúng sanh nói pháp chân thật.

Nếu lại chúng sanh nương theo phái chẳng phải chân tăng, ta sẽ vì chúng sanh làm chỗ chân tăng để chúng quy y.

Nếu người phân biệt ba pháp quy y, ta sẽ vì họ mà làm chỗ quy y duy nhất, không ba pháp sai khác.

Phật giải thích lại Tam bảo. Đại thừa không có tam quy sai khác mà vì hóa độ phàm phu và Thanh văn nên nói tam quy có sai khác. Tam bảo về hình thức sự thật gốc từ nơi Phật. Nếu không phải Phật nói ra thì làm gì có pháp, nếu không phải Phật hóa độ thì làm gì có tăng? Tam bảo của tự tánh là Phật tánh. Phật tánh là tánh giác nơi chúng ta sẵn có, không sanh không diệt, đầy khắp, gọi là pháp thân. Vậy Phật tánh và pháp thân không phải hai. Phật tánh và pháp thân không rời nhau gọi là tăng. Cho nên đúng với tinh thần Đại thừa, nhận ra được Phật tánh bất sanh bất diệt mới gọi là quy y Tam bảo. Quy y Tam bảo nơi mình, nơi tự tánh. Tam bảo đó không có tánh sai biệt, bất sanh bất diệt.

Chúng ta nếu nhận ra mình có Phật tánh thì đó là chỗ quy y duy nhất, đó mới là quy y tối thượng. Quy y này là nền tảng của người tu, khi nhận được có Phật tánh thì mới tin mình sẽ thành Phật. Hiện tại chúng ta lễ Phật, lễ tháp, lễ xá-lợi... đó là phương tiện giáo hóa chúng sanh để cho họ có chỗ phát tâm quy ngưỡng. Quan trọng là phải nhận nơi mình có Phật tánh thì pháp tu hành sẽ trở thành vô thượng tối thắng. Nếu không thì chỉ là tu hành trong sanh diệt, chưa phải là pháp chân thật.

Đối với hạng sanh manh, ta vì họ làm nhãn mục.

Ta lại sẽ vì hàng Thanh văn, Duyên giác mà làm chỗ chân quy.

Này thiện nam tử! Như vậy, Bồ-tát vì vô lượng chúng sanh ác và những người trí mà làm Phật sự.

Này thiện nam tử! Ví như người lúc ra trận chiến đấu, tự nghĩ rằng trong đội ngũ đây, ta là người thứ nhất, tất cả binh sĩ đều nương cậy nơi ta.

Cũng như vương tử suy nghĩ thế này, ta sẽ điều phục các vương tử khác, nối ngôi đại vương giữ gìn nghiệp chủ, để đặng tự tại, khiến các vương tử đều phải quy y. Vì thế nên chẳng được sanh tâm hạ liệt. Như vương tử, vua các quan cũng như vậy.

Phật giải thích về pháp chân thật cho Bồ-tát Ca-diếp nghe. Đối với hạng sanh manh, là kẻ mù từ thuở bé, Phật sẽ vì họ làm nhãn mục, tức là làm mắt cho họ. Hàng Thanh văn Duyên giác, Phật làm chỗ quy y chân thật. Như vậy Bồ-tát vì vô lượng chúng sanh ác và những người trí mà làm Phật sự. Phật chỉ rõ, biết quy y Tam bảo đúng với tinh thần Đại thừa, lúc đó chúng ta mới có thể làm chỗ nương tựa cho tất cả chúng sanh, là người mạnh dạn lẫm liệt nhất, đứng ra lãnh đạo hướng dẫn mọi người trên con đường tu tiến từ mê đến giác, như vị vương tử chinh phục tất cả để kế nghiệp vua cha.

Này thiện nam tử! Bồ-tát cũng suy nghĩ như vầy: Thế nào ba sự cùng ta đồng một thể?

Này thiện nam tử! Đức Phật nói ba sự tức là Niết-bàn. Như Lai đó gọi là Vô thượng sĩ. Ví như thân người, đầu là trên tất cả, chẳng đồng với tay chân lóng đốt. Phật cũng như vậy, là bậc tôn thượng, chẳng phải pháp cùng tăng. Vì muốn hóa độ các thế gian, nên thị hiện những tướng sai khác, ví như bậc thang kia.

Vì thế, nay ông chẳng nên như hàng phàm ngu, nhận biết tướng ba pháp quy y sai khác. Đối với Đại thừa, ông phải như dao bén mạnh mẽ quyết đoán.

Ba sự tức là ba quy y ở trên. Ba sự đó nếu nhận đúng lý tức là đạt được Niết-bàn. Tại sao? Vì ngay nơi thân ta, nhận được Phật tánh bất sanh bất diệt và sống với cái bất sanh bất diệt đó nên an lành, không trầm luân sanh tử nữa, thì đó là Niết-bàn.

Phật ví dụ như thân người, đầu là trên tất cả chẳng đồng với tay chân lóng đốt. Phật cũng vậy, là bậc tôn thượng, chẳng phải pháp cùng tăng. Vì muốn hóa độ khắp thế gian nên thị hiện những tướng sai khác, làm thềm thang cho họ bước từ từ. Sự thật chỉ nhận được Phật, sẽ có đầy đủ cả pháp và tăng. Đối với Đại thừa, phải như dao bén mạnh mẽ quyết đoán cho đúng, đừng nghe đâu tin đó không chịu nhận hiểu.

Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Thế Tôn! Tôi vẫn biết, nhưng cố ý hỏi, chẳng phải là không biết, tôi vì các vị Bồ-tát đại dõng mãnh, mà bạch hỏi chỗ thật hành thanh tịnh không nhơ, muốn đức Như Lai vì các Bồ-tát tuyên nói những việc kỳ đặc, tuyên dương kinh điển Đại thừa phương đẳng. Đức đại bi Thế Tôn hôm nay đã khéo giải thuyết. Tôi cũng đã an trụ trong pháp đó. Chỗ thật hành thanh tịnh của Bồ-tát mà Phật đã nói đó, tức là tuyên thuyết kinh Đại Niết-bàn.

Thế Tôn! Nay tôi cũng sẽ rộng vì chúng sanh diễn dương tạng Như Lai bí mật như vậy, cũng sẽ chứng biết chỗ tam quy chân thật.

Nếu có chúng sanh nào có thể tin kinh Đại Niết-bàn này, người đó thời có thể tự nhiên rõ thấu chỗ ba pháp quy y. Vì tạng Như Lai có Phật tánh vậy.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật là ngài vẫn biết nhưng cố ý hỏi, chẳng phải là không biết. Sở dĩ ngài vì muốn lợi ích cho người nên mới hỏi vậy.

Ngài nói sẽ vì chúng sanh diễn dương tạng Như Lai bí mật, cũng sẽ chứng biết chỗ tam quy chân thật

Vậy tạng Như Lai bí mật là gì? Ở phẩm này tạng Như Lai bí mật là tánh Như Lai, là Phật tánh. Vì sao gọi Phật tánh là tạng Như Lai bí mật? Vì Phật tánh đó ai cũng có mà không nhìn nhận, không biết ở đâu. Phật nói qua nói lại, nói tới nói lui nhưng chúng ta không hiểu. Ai đi đâu thì mang theo tới đó, nhưng lại không biết nó ra sao, nên mới gọi là bí mật. Nếu đã nhận, đã hiểu, đã thấy thì không gọi là bí mật nữa.

“Như Lai có mật ngữ, Ca-diếp không phú tàng.” Nếu mình hiểu rồi thì lẽ dĩ nhiên không còn che giấu nữa, còn nếu chưa hiểu, nghĩa là nó ẩn kín nên gọi là tạng bí mật của Như Lai.

Có người tuyên nói kinh điển này, thời đều nói rằng trong thân vẫn có Phật tánh. Người này bèn chẳng cầu ba pháp quy y nơi đâu xa. Vì đời vị lai đây, thân ta bèn sẽ thành tựu ngôi Tam bảo. Vì thế nên hàng Thanh văn, Duyên giác và những chúng sanh khác đều nương nơi ta cung kính lễ bái. Do nghĩa đó nên phải khéo học kinh điển Đại thừa.

Phật tánh như vậy chẳng thể nghĩ bàn, ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tốt cũng chẳng thể nghĩ bàn.”

Ai nói được kinh điển Đại Niết-bàn là đã thừa nhận trong thân mình có Phật tánh. Nếu nỗ lực tu thì ngày nào đó sẽ có đầy đủ Tam bảo, không phải cầu cạnh nơi đâu. Chỉ cần biết trở về Phật tánh, tức là trở về Phật, rồi sẽ có pháp và tăng.

Phật là cái đầu, là tối cao tối thượng. Có được đầu não rồi các bộ phận phụ sẽ theo đó mà có. Chúng ta hiểu được như vậy, nương như vậy tức là đã biết trở về với Như Lai, với tạng bí mật của chính mình. Nếu không hiểu như vậy, cứ theo hình tướng bên ngoài, không thể thoát khỏi sanh tử.

Phật bảo Ca-diếp Bồ-tát: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Ông đã thành tựu trí huệ rất sâu.

Nay ta sẽ lại vì ông nói pháp chứng nhập tạng Như Lai.

Nếu ngã là có, thời là pháp thường chẳng rời nơi khổ. Nếu không có ngã, thời tu hạnh thanh tịnh không được lợi ích.

Nếu cho rằng các pháp đều không có ngã, đó là đoạn kiến, nếu cho rằng có ngã thời là thường kiến.

Nếu cho rằng tất cả hành pháp là vô thường, thời là đoạn kiến, cho rằng các hành pháp là thường, thời lại là thường kiến.

Nếu nói là khổ, thời là đoạn kiến, nếu nói là lạc, thời lại là thường kiến.

Phật khen ngợi ngài Ca-diếp đã thành tựu được trí tuệ rất sâu, hay có con mắt thấy được kho tàng bí mật của Như Lai, như kỹ sư nhìn biết được chỗ nào có mỏ dầu hay mỏ than đá. Cho nên khi nhận được lẽ đó rồi thì không tự khi mình là phàm phu tu hành không tiến, nhưng cũng không cho mình là Bồ-tát, như vậy là ngã mạn; cứ nỗ lực tiến rồi một ngày kia mình cũng sẽ được thành Phật.

Bây giờ Phật nói pháp chứng nhập tạng Như Lai. Như trong kinh Pháp Hoa nói khai thị ngộ nhập. Từ trước là khai thị, nghĩa là mở ra cho mình thấy Phật tánh rồi, giờ làm sao để chứng nhập Phật tánh đó.

Phật dạy có hai bệnh chấp: Một là chấp ngũ uẩn có ngã thật. Tức là chấp sắc thọ tưởng hành thức là ngã thật của mình thì lúc nào cũng chuốc khổ, trầm luân sanh tử không dứt. Hai là chấp chết là hết không có gì là ngã, không tiến lên thành hiền thánh hay phải đọa thành phàm phu... Nếu vậy thì dù có tu hạnh thanh tịnh cũng không được lợi ích, vì đâu còn gì để thọ, để giải thoát. Như vậy một bên chấp có một bên chấp không, hai bên đều là bệnh, không có lợi ích.

Đây là chỗ thật tế nhị. Vì không có ngã thì còn gì để tu chứng? Kinh Nhị thừa nói các pháp vô ngã, ở đây nếu nói pháp vô ngã thì lạc về đoạn kiến, nếu cho các pháp có ngã thì mắc kẹt về thường kiến. Vậy phải nói sao cho đúng? Nên nói thế này, ngũ uẩn là vô ngã nhưng Phật tánh thì không phải là không. Nếu căn cứ vào năm uẩn mà chấp ngã cho nó còn mãi là thường kiến, nếu cho Phật tánh vô ngã là đoạn kiến. Chỉ có người biết ngay năm uẩn này không có ngã, nhưng Phật tánh lại chẳng mất, như vậy sẽ không mắc kẹt vào thường kiến hay đoạn kiến.

Tiếp theo là hành pháp, có hành thì cho là thường, không hành cho là đoạn. Tại sao khổ là đoạn kiến? Vì vô thường nên thấy khổ, vô thường là có đoạn hoại nên thuộc đoạn kiến. Tại sao nói lạc gọi là thường? Vì ta cho mọi thứ không mất, không mất mới vui, đó là chấp thường kiến.

Tu tất cả pháp thường đó, thời sa nơi đoạn kiến, tu tất cả pháp đoạn đó, thời sa nơi thường kiến. Như bước đi, cần phải do chân trước, mới dời đặng chân sau. Người tu pháp thường pháp đoạn cũng lại như vậy, cần phải do nơi đoạn và thường.

Người tu cũng vậy, khi tu pháp này thì mắc kẹt vào pháp kia. Như tu về pháp đoạn kiến thì mắc về thường kiến, tu thường kiến thì mắc đoạn kiến, hai cái đắp đổi cho nhau không dứt.

Do nghĩa này, nên người tu các pháp khổ đều gọi chẳng lành, người tu các pháp lạc, thời gọi lành. Người tu các pháp vô ngã, thời thuộc về phiền não, người tu các pháp thường, thời gọi là tạng Như Lai.

Các pháp khổ là vô thường nên chẳng lành. Các pháp lạc là thấy cái bất sanh bất diệt nên là thường, thường cho nên lành.

Chữ thường ở đây, không nên hiểu như Phật dạy ở trước là pháp thường pháp đoạn, chữ thường ở đây nghĩa là biết năm uẩn này là pháp sanh diệt, nhưng thể tánh của nó là pháp thân, là Phật tánh, là cái bất sanh bất diệt. Căn cứ vào cái bất sanh bất diệt làm chỗ để tu hành, kinh Viên Giác gọi là “xứng tánh khởi tu”, tức là xứng theo thể tánh Phật tánh bất sanh bất diệt, tu ngay nơi đó. Tuy nói tu nhưng không tu gì cả.

Ví dụ người nào chơi với những kẻ trộm cướp thì là bè phái của trộm cướp. Người nào làm thân với người lương thiện là bạn bè của người lương thiện. Cũng vậy, nếu nhận cái sanh diệt là mình thì sẽ đi theo chiều sanh diệt, nếu nhận cái bất sanh bất diệt rồi hằng sống với nó thì mình trở thành bất sanh bất diệt.

Đại đa số chúng ta hằng ngày nhận thân tứ đại là thân mình, nhận sự suy nghĩ tính toán là tâm mình. Nhưng thân tứ đại này, có đem đất nước gió lửa vào bồi bổ thì còn, không bồi bổ thì hết, nó sanh diệt từng phút từng giây. Thọ tưởng hành thức cũng sanh diệt liên miên, nhận nó là tâm mình thì làm sao khỏi sanh diệt. Nhận sanh diệt làm thân làm tâm, nên mãi mãi trôi trong dòng sanh diệt, gọi là trầm luân. Bây giờ biết thân tâm sanh diệt không phải thật là mình, chính cái bất sanh bất diệt trong đó mới là mình, cứ trở về sống với nó thì sẽ không còn sanh diệt nữa.

Tất cả các pháp tu của Phật, như niệm Phật để nhất tâm bất loạn nghĩa là trở về với cái bất sanh bất diệt, như vậy mới được vô sanh; tham thiền là không theo vọng tưởng, không theo sanh diệt để trở về cái bất sanh bất diệt; trì chú cũng là dẹp hết loạn tưởng để trở về với nhất tâm; thân khẩu ý thanh tịnh thì cũng trở về cái bất sanh bất diệt. Nhưng vì chúng ta không nhận ra được cái bất sanh bất diệt, nên Phật phải nói cách này cách kia để chúng ta tu. Nếu nhận ra được cái bất sanh bất diệt rồi thì khỏi tu.

Các thiền sư nói “đói ăn mệt ngủ”, hay như ngài Triệu Châu nói “nếu nói tu là tai họa”..., vì đã biết cái cốt yếu. Nhưng mình không tin, nghe nói làm cái này cho có phước, làm cái kia cho có công đức thì ham, làm những việc này sẽ có các vị thần ủng hộ, nghe như thế nên làm. Vì ham phước ham đức, ham được các vị thần ủng hộ nên mình làm. Nhưng tất cả việc làm đó cũng quy về chỗ bất sanh bất diệt.

Ví dụ như nói trì chú linh nghiệm lắm, được thần linh ủng hộ không ai dám động tới. Niệm Phật sẽ được vô lượng vô biên công đức, một câu niệm Phật phước đẳng hà sa. Tham thiền thì dứt trừ vọng tưởng một đời thành Phật... Vì ham nên mình ráng tu. Nhưng rốt cuộc chỉ là trở về cái bất sanh bất diệt của mình thôi. Nếu nhận ra rồi thì sống với nó, còn gì để tu nữa, nên các ngài không nói là các ngài tu. Kinh nói tu không tu, chứng không chứng. Mình tu cốt làm sao đừng chấp nhận cái sanh diệt.

Kinh Lăng-nghiêm, ngài A-nan cho cái hay suy nghĩ phân biệt là mình, bị Phật quở nhận giặc làm con. Nếu nhận giặc làm con thì gia sản sự nghiệp sẽ tan hoang. Cho nên đừng nhận giặc làm con, hãy trở về với cái thật của mình. Đó gọi là pháp thường, gọi là tạng Như Lai.

Niết-bàn, không có nơi chốn. Tu những pháp vô thường, thời là tài vật, tu những pháp thường, gọi là Phật, Pháp, Tăng, và chánh giải thoát.

Nên biết Phật pháp trung đạo như vậy, xa lìa hai bên mà nói pháp chân thật. Người phàm phu ngu mê đối trong pháp đó không nghi, như người gầy yếu, được uống thuốc bổ, thời khí lực khỏe khoắn.

Những pháp hữu, vô, thể tánh chẳng nhất định. Ví như tứ đại tánh nó chẳng đồng, đều trái phản nhau. Lương y khéo biết tùy món đại nào phát bệnh mà điều chỉnh đó.

Tu pháp vô thường Phật cho là tài vật, vì đó là hình tướng bên ngoài; nếu nhận được pháp thường tức là nhận được Phật tánh, đó mới thật là Phật pháp tăng, mới là chân chánh giải thoát. Phàm phu dù có u mê cách mấy, mà đối pháp đó không nghi ngờ thì chẳng khác nào kẻ gầy yếu uống thuốc bổ được khỏe mạnh.

Chúng ta tu chẳng khác vị lương y điều chỉnh con bệnh. Khi chẩn mạch, biết người đó đang bị cơn nóng hoành hành thì phải bổ thuốc mát để hòa dịu lại, mạch đang loạn thì hạ nóng sẽ bớt. Chúng ta lâu nay cứ chấp cái sanh diệt làm thân làm tâm cho nên trôi lăn trong dòng sanh tử luân hồi không bao giờ hết. Bây giờ biết có cái bất sanh bất tử ở trong, chúng ta lợi dụng cái sanh tử, đừng chấp cũng đừng bỏ, để thể nhập cái bất sanh bất tử. Như vậy là biết điều hòa, biết chuyển hướng từ dở trở thành hay, từ sanh diệt biến thành vô sanh. Nếu nghe nói thân này là vô thường rồi hủy hoại nó để cầu cái thường, đó là không biết tu.

Tu chỉ là sự chuyển đổi. Nếu vị thầy thuốc thấy bệnh nóng quá cho uống thuốc mát mãi thì bệnh nhân chết luôn. Chỉ cần cho uống thuốc hạ cơn nóng, nóng và mát quân bình thì mới hết bệnh. Còn bệnh lạnh mà cho uống thuốc nóng thì người bệnh điên luôn. Trị bệnh phải biết điều hòa, biết quân bình. Chúng ta cũng vậy, biết ngay trong cái giả có cái thật, nương giả tìm thật, đó là người biết tu. Bỏ giả tìm thật bên ngoài, đó là không biết tu, chỉ chuốc họa mà thôi.

Này thiện nam tử! Cũng vậy, đức Như Lai đối với các chúng sanh, cũng như vị lương y, rõ biết thể tướng sai khác của các phiền não mà dứt trừ, khai thị tạng Như Lai bí mật, Phật tánh thanh tịnh thường trụ chẳng biến đổi. Nếu cho rằng có, thời lẽ ra trí chẳng nhiễm. Nếu nói là không, bèn thành vọng ngữ. Nếu nói là có, lẽ ra chẳng nên nín lặng. Lại cũng chẳng nên hý luận cãi cọ, chỉ nên cầu được rõ biết chân tánh của các pháp.

Người phàm phu hý luận cãi cọ vì chẳng hiểu tạng Như Lai. Nếu nói pháp khổ, người ngu bèn cho thân là vô thường, chẳng có thể biết nơi thân có tánh lạc.

Nếu nói vô thường, người phàm phu chấp tất cả thân đều là vô thường, như ngói chưa hầm chín.

Nếu là người trí nên phải quan sát, chẳng nên nói tất cả đều vô thường vì nơi thân của ta có chủng tử Phật tánh.

Phật biết các thể tướng sai khác của phiền não mà dứt trừ. Biết sắc uẩn cũng là tướng sanh diệt phiền não, thọ tưởng hành thức cũng là tướng sanh diệt phiền não.

Những tướng sanh diệt phiền não sai khác nhau nhưng đều không rời tạng bí mật Như Lai, tức là Phật tánh. Chúng ta đừng chấp nhận tướng phiền não sai biệt, mà trở về với tạng Như Lai bí mật. Nên nói tướng sai khác của các phiền não dứt trừ, trở về với Phật tánh thanh tịnh thường trụ chẳng biến đổi.

Nếu chúng ta chấp rằng mình hằng có Phật tánh thường trụ thanh tịnh chẳng bao giờ nhiễm ô, rồi không cần phải tu hành, như vậy là lầm. Vì nếu có Phật tánh tại sao đối với ngũ dục mình còn nhiễm? Nhưng nếu nói là không có Phật tánh bèn là vọng ngữ. Có mà bị nhiễm nên nói là ẩn tàng chứ không phải không có. Giống như trăng bị mây che nên thấy tối. Nếu cứ nói có trăng mà người ta vẫn thấy tối là mình nói không đúng. Nên phải khéo nói là có trăng nhưng vì bị mây che nên thấy tối. Như vậy mới không bị mắc kẹt. Chúng ta có Phật tánh nhưng vì bị phiền não che khuất nên bị nhiễm, ngày nào dẹp hết phiền não, hết nhiễm ô thì Phật tánh hiển lộ, chứ không phải là không.

Nếu chúng ta nói có Phật tánh thì chẳng nên nín lặng cũng chẳng nên hý luận cãi cọ. Chỉ cần thẳng đó nhận và hiểu ra thôi, nói nhiều cũng không được mà lặng thinh cũng không xong. Biết có mà lặng thinh không chỉ cho người biết cũng không được. Đã biết có Phật tánh rồi cãi cọ nhau vô ích. Người phàm phu hý luận cãi cọ vì chẳng biết tạng Như Lai, chỉ là lối hý luận suông vô ích. Các pháp tương đối, nếu chấp một bên đều không đúng. Vì vậy chúng ta phải thấy cái viên mãn, nhận ra chân tánh mới là cứu cánh. 

Nghe Phật nói tất cả pháp vô thường thì chấp cái gì cũng vô thường, cũng như ngói chưa hầm chín đụng vô là bể nát. Phàm phu chúng ta giống như mủ mít, nghe đâu chấp đó, đụng đâu dính đó, không gỡ ra được.

Khi nghe Phật nói tất cả vô thường thì biết đó là trên tứ đại ngũ uẩn, còn Phật tánh chẳng phải vô thường, như vậy mới là người trí. Nghe nói là vô thường rồi cho tất cả vô thường, đó là người không có trí.

Nếu nói vô ngã, người phàm phu sẽ cho là tất cả Phật, Pháp đều không có ngã. Người trí nên phải quan sát vô ngã là giả danh chẳng thật, rõ biết như vậy chẳng nên sanh nghi.

Nếu nói tạng Như Lai là không tịch, người phàm phu nghe như thế sanh kiến chấp đoạn diệt. Người trí nên phải quan sát Như Lai là thường, không có biến đổi.

Nghe Phật nói tất cả các pháp là vô ngã, phàm phu sẽ cho tất cả đều vô ngã, sự thật Phật đâu phải là vô ngã. Nên người trí phải quán sát vô ngã là giả danh chẳng thật. Nói vô ngã để chỉ cho thân ngũ uẩn này là pháp giả danh hòa hợp không thật. Nhưng trong cái giả đó lại ngầm có cái thật. Phải hiểu như vậy.

Nghe nói tạng Như Lai hay Niết-bàn là không tịch, nhiều người cho là hư vô, không có gì hết. Tuy thế gian gọi là trí, nhưng đối với Phật pháp thì đó là phàm phu ngu si chấp đoạn diệt. Người thật có trí phải quán sát, Như Lai không tịch nghĩa là không có hình tướng, lặng lẽ, không phải như hư không mà là Phật tánh thường trụ bất biến.

Chỗ này tôi giảng rộng một chút. Hằng ngày có những điều hay mà ít có người chịu xét kỹ. Ví dụ như sống là gì? Tôi có thể định nghĩa sống một cách rất đơn giản: Sống là động, không động là không sống. Mũi hít vô thở ra, trái tim đập, mạch máu nhảy... tất cả cái đó đều là động, gọi là sống, ngừng là chết. Chiếc xe còn nổ xình xịch thì còn chạy, hết nổ gọi là chết máy, ngưng nổ ngưng động là chết. Nói nghe dễ dàng quá. Như vậy sống chỉ là cái động. Trên thế gian này có gì sống mà không động? Cũng như cây cối, mình nói là cây tươi cây sống thì nó phải sanh trưởng. Nhưng nó sanh trưởng chậm nhỏ mình không thấy, đôi ba ngày thấy đâm tược tức là nó động, có đổi thay.

Phật giải nghĩa Phật tánh hay Niết-bàn là không tịch. Chữ tịch tức là lặng lẽ, không động. Người ta lại cho không động là chết. Phàm sống phải động và có hình tướng. Có hình tướng là có, không hình tướng là không. Thân này có hình tướng nên là có, mà Phật tánh, Niết-bàn lại thoát ra ngoài hình tướng, nên Niết-bàn là không tịch. Thân là động, mà động là vô thường, cái có tướng là cái hoại diệt. Chấp cái vô thường và hoại diệt là mình thì mình là vô thường hoại diệt. Nếu ngay đó thấy Phật tánh không phải động, không phải là hình tướng nên không phải vô thường hoại diệt, nó cũng không phải là không mà là chủ của tất cả cái động. Như trong kinh Lăng-nghiêm, Phật nói: Chẳng khác nào khi ra biển, thấy một bọt nước nhỏ tí trên biển, mình cho bọt nước chính là biển.

Cái gì là bọt nước, cái gì là biển cả? Tâm năng suy của mình là bọt, mà Phật tánh bất sanh bất diệt là biển cả. Chúng ta cứ cho cái năng suy là tâm, là tánh của mình..., ví dụ nói “tánh tôi nóng lắm” hay “tánh tôi hay phiền muộn lắm”... Nhận những cái đó làm tánh làm tâm, chẳng khác nào nhận bọt nước làm biển cả. Biết đó là bọt thì mới thấy được toàn thể biển cả, không hình tướng màu sắc mà không phải là không. Chỗ đó gọi là tạng bí mật của Như Lai. Thấy được như vậy mới thấy mình đầy khắp, “con mắt của Sa-môn” đầy cả mười phương thế giới.

Phật giải thích, không tịch đừng hiểu lầm là hết, là hư không, là trống rỗng. Người trí phải quán sát Như Lai là thường, không biến đổi. Bởi có động nên có vô thường, biến đổi. Như Lai là tịch nên không động, không biến đổi. Có hình tướng thì bị hoại diệt, Như Lai không hình tướng nên không bị hoại diệt.

Nếu nói giải thoát dụ như huyễn hóa, người phàm phu sẽ cho rằng chứng đặng giải thoát, tức là dứt mất. Người trí nên phải quan sát đức Như Lai giải thoát, dầu có đến đi, nhưng vẫn thường trụ không biến đổi.

Nếu nói vô minh làm nhân duyên mà có các hành pháp, người phàm phu liền phân biệt tưởng rằng có hai pháp: “Minh” đến “Vô minh”. Người trí rõ biết tánh đó vốn không có hai. Tánh không hai đó tức là thật tánh.

Giải thoát rồi tùy duyên hóa độ bằng hóa thân như huyễn như hóa không thật. Có nhiều người nghe nói như vậy, tưởng thành Phật như huyễn như hóa thôi; đó là hiểu lầm. Tuy Phật thị hiện hóa độ chúng sanh mỗi nơi mỗi chốn mà pháp thân thường trụ bất biến, hiểu như vậy mới thật là trí.

Đọc kinh Niết-bàn chúng ta hiểu được câu của ngài Vĩnh Gia Vô minh thật tánh tức Phật tánh. Ngài Vĩnh Gia rõ ràng là đại trí, còn chúng ta thấy vô minh khác với minh. Thật ra nó không hai, nếu thấy là hai là khác, tức là thấy lầm. Tại sao? Như trong nhà này, lúc mặt trời lên thấy sáng, mặt trời lặn thấy tối. Tối và sáng là hai. Nhưng sự thật có phải là hai không? Nương nơi tối mà gọi đây là sáng, nương nơi sáng mà gọi đây là tối, chỉ là đối đãi, giả lập với nhau. Nếu không có sáng làm gì biết tối, tối do nơi sáng mà có, sáng gốc từ tối mà ra, nếu không có tối làm gì có sáng. Các pháp đối đãi tạm có không thật.

Minh và vô minh cũng là pháp đối đãi không thật. Vì thật tánh vô minh chính là Phật tánh. Vô minh theo tinh thần Đại thừa là thấy thân này là ngã, là thật có, cảnh là thật có. Đổi lại thấy thân này không thật có, cảnh này không thật có, vậy là đã minh. Vô minh và minh không rời nhau, không phải là hai. Lúc trước mình biết thân này là có, bây giờ biết thân này là huyễn. Khi trước quan niệm lầm thì bây giờ trở lại quan niệm đúng đắn. Quan niệm lầm mất rồi thì quan niệm đúng đắn hiện ra. Như vậy, tột của tánh vô minh là tánh minh. Vọng tưởng dấy lên mà theo là vô minh, không theo là minh. Khi vọng tưởng dấy lên, thật tánh bị che. Khi vọng tưởng không dấy lên là sống với thật tánh. Nhận giả tướng làm mình là vô minh, trở về thật tánh của nó là minh.

Thật tánh minh Phật tánh. Đơn giản như vậy.

Chuyện tu hành chỉ chừng đó thôi. Chính ngay một vật khéo chuyển thì từ vô minh thành minh. Hai cái đối đãi chỉ là giả lập. Vì vậy nói người trí đã biết tánh vốn không hai, nhận được tánh không hai tức là biết được thật tánh.

Nếu nói các hành làm nhân duyên có ra thức, người phàm phu cho rằng có hai “Hành” cùng “Thức”.

Người trí rõ biết tánh đó không hai. Tánh không hai đó tức là thật tánh.

Nếu nói thập thiện, thập ác, có thể tạo tác, không thể tạo tác, đường lành, đường dữ, pháp lành, pháp dữ, người phàm phu nghe đó cho là có hai, người trí rõ biết tánh đó không hai. Tánh không hai đó tức là thật tánh.

Nếu nói nên tu tất cả pháp khổ, phàm phu cho rằng có hai, người trí rõ biết tánh kia không hai, tánh không hai đó tức là thật tánh.

Nếu nói tất cả hành pháp là vô thường, thời tạng Như Lai cũng là vô thường, phàm phu cho rằng có hai, người trí rõ biết tánh đó không hai, tánh không hai đó tức là thật tánh.

Nếu nói tất cả pháp vô ngã, tạng Như Lai cũng không có ngã, phàm phu cho rằng có hai, người trí rõ biết tánh đó không hai. Tánh không hai đó tức là thật tánh.

Ngã với vô ngã nơi tánh không có hai thứ.

Trong kinh nói mười hai nhân duyên: vô minh duyên nơi hành, hành duyên nơi thức. Hành và thức, thấy tưởng như có hai. Vì mê lầm nên không nhận ra được thật tánh, chúng ta chạy theo thức tạo nghiệp thúc đẩy mình thọ thai.

Hành chỉ là sự thúc đẩy của thức, vì thức vốn huân tập. Như thích dục lạc thế gian, do thích nên bị thúc đẩy đi tìm chỗ để thọ sanh. Cái thúc đẩy đó gọi là hành. Chúng ta tưởng hành rời thức mà có, nên nói hành và thức là hai. Người trí biết rõ hành và thức không hai, chỉ do Phật khéo léo đặt tên chia chẻ cho dễ hiểu. Nếu biết không hai tức là biết được thật tánh của nó.

Thiện và ác, cái này nên tạo cái kia không nên tạo, đây là đường lành, kia là đường dữ v.v... tất cả như có hai, có thật. Nhưng với người trí thấy không hai. Tại sao? Vì do ngay tâm chúng ta tạo ra, tâm có thể tạo thập ác, có thể chuyển thập thiện, dừng các điều ác. Như vậy lành dữ thiện ác, tạo tác không tạo tác... chỉ là pháp đối đãi với nhau, như huyễn, là phương tiện đặt ra, dùng với nhau cho dễ hiểu, không phải thật. Nếu thấy các pháp đối đãi không thật là chúng ta đã thấy tánh thật của các pháp.

Trong thiền tông, Lục Tổ dạy đệ tử ba mươi sáu cặp đối đãi. Hỏi, thế nào là vô minh? Đáp, vì không minh nên gọi là vô minh. Hỏi, thế nào là thiện thì lấy ác đáp... Nghĩa là luôn luôn lấy cái ngược lại để đối đáp, hỏi bên này thì lấy bên kia đáp. Ngài không cho đáp thẳng, không cho cắt nghĩa. Ngài nói đối đáp như vậy người ta sẽ nhân đó mà thấy được lẽ thật. Lời của Lục Tổ dạy đúng với tinh thần kinh Niết-bàn. Như hỏi thế nào là sanh tử, trả lời vì không biết Niết-bàn. Thế nào là Niết-bàn, vì biết rõ sanh tử. Thấy sanh tử và Niết-bàn, vô minh và minh là pháp đối đãi nhau không thật. Thấy được tánh thật của các pháp là giác ngộ.

Lối đối đáp mới nghe thì thấy kỳ lạ, dạy mà không có giải nghĩa. Chúng ta quen nghe giải nghĩa từng chữ, từng lời, ngài lại không chịu. Ngài đối đáp rất đơn giản, lấy cái này đáp cái kia, lấy cái kia đáp cái nọ, để thấy không có cái gì là thật, mà thấy không thật đó là thấy lẽ thật. Đặc điểm của thiền tông phù hợp với kinh điển Đại thừa, không sai chút nào. Kinh Duy-ma-cật cũng chỉ hai pháp đối đãi không thật, bởi không thật nên tánh là không. Đó là pháp môn bất nhị.

Tạng Như Lai, nghĩa tánh vô lượng vô biên như vậy, là chỗ mà chư Phật đều tán thán, hôm nay ta ở nơi trong kinh thành tựu tất cả công đức này đều đã nói rồi.

Này thiện nam tử! Ngã cùng vô ngã tánh và tướng không có hai thứ, ông phải thận trọng thọ trì như vậy, ông cũng phải ghi nhớ giữ gìn kinh điển này. Như ta ngày trước trong kinh Đại Bát-nhã cũng nói ngã và vô ngã không có hai thứ.

Này thiện nam tử! Như do sữa thành lạc, do lạc thành sanh tô, do sanh tô thành thục tô, do thục tô đặng chất đề hồ. Chất lạc đó là từ sữa sanh ra, hay là nó tự sanh, hoặc do cái khác sanh ư, nhẫn đến đề hồ cũng lại như vậy. Nếu từ cái khác sanh, thời là lẽ ra chẳng phải do sữa mà thành. Nếu chẳng phải từ nơi sữa sanh, thời sữa thành vô dụng đối với lạc, bởi sữa vốn không có lạc. Nếu lạc, tự nó sanh lấy nó, lẽ ra chẳng từ sữa lần lần biến thành lạc. Nếu lần lần biến thành, thời là chẳng sanh chung. Nếu chẳng sanh chung, thời cả năm thứ không đồng một thời. Dầu chẳng đồng một thời, nhưng quyết định chẳng phải từ nơi chỗ khác mà có.

Phải biết trong chất sữa đã có tướng của chất lạc. Vì nhiều vị ngọt nên chẳng thể tự biến. Nhẫn đến chất đề hồ cũng lại như vậy.

Do con bò cái ăn cỏ, uống nước, huyết mạch chuyển biến mà đặng có sữa. Nếu nó ăn cỏ ngọt, thời sữa nó nhiều vị ngọt. Nếu nó ăn cỏ đắng, thời sữa nó có lẫn vị đắng. Núi Tuyết có thứ cỏ tên là phì nhị. Bò cái ăn cỏ phì nhị, thời đặng thuần chất đề hồ, không có những màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen.

Do cỏ lúa làm nhân duyên mà sữa bò có màu vị khác nhau. Cũng vậy, các chúng sanh do minh cùng vô minh, vì nghiệp làm nhân duyên mà sanh có hai tướng. Nếu vô minh chuyển thời biến làm minh. Tất cả những pháp thiện, bất thiện, vân vân, cũng lại như vậy, không có hai thứ.”

Trong tạng Như Lai đầy đủ hết. Phật dạy Bồ-tát Ca-diếp phải nhận ra ngã và vô ngã tánh tướng không hai, phải ráng thọ trì.

Phật dùng ví dụ sữa thành lạc. Sữa và lạc tưởng như là hai, nhưng rời sữa làm sao có lạc, lạc không phải ngoài sữa mà có, do sữa thành lạc, do lạc thành sanh tô, do sanh tô thành thục tô, do thục tô được chất đề hồ. Các pháp đều nương nhau đối đãi mà có, không có một pháp thật, bởi không có một pháp thật nên mình không thể quyết định có hai được. Hiểu được như vậy là hiểu đúng tinh thần của đoạn này.

Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Thế Tôn! Như lời Phật nói, trong sữa có tướng lạc, nghĩa đó như thế nào? Thế Tôn! Nếu nói rằng trong sữa quyết định có tướng lạc, do vì vi tế chẳng thấy được, thế sao lại nói từ nơi sữa mà thành lạc. Phàm trước vốn không mà nay có thời gọi đó là sanh. Như lạc đã vốn có, sao lại nói là sanh. Nếu nói trong sữa quyết định có tướng lạc, thời trong cỏ lúa lẽ ra cũng có sữa, và trong sữa lẽ ra cũng có cỏ lúa.

Nếu nói trong sữa quyết định không có lạc, thế sao nhân sữa mà đặng thành lạc. Nếu trước vốn không, sau mới sanh ra có, thời cớ gì trong sữa chẳng sanh ra cỏ lúa?”

Bồ-tát Ca-diếp đặt câu hỏi với tính cách quyết định nên Phật giải thích cho ngài rõ các pháp không nhất định.

Trong sữa quyết định có lạc thì lạc đã có trong sữa rồi còn nói sanh làm gì? Còn nói rằng không có thì không lẽ từ nơi nào đến mà sanh. Nếu không có sao sữa lại thành lạc mà không từ cỏ thành. Như vậy nói có hay nói không một cách quyết định đều không đúng.

“Thiện nam tử! Chẳng nên nói quyết định trong sữa có lạc hay trong sữa không có lạc, cũng chẳng nên nói từ nơi khác mà sanh.

Nếu nói trong sữa quyết định có lạc, thời chất và vị của hai thứ sao lại khác nhau. Vì thế nên chẳng nên nói trong sữa quyết định có chất lạc.

Nếu nói trong sữa quyết định không có lạc, cớ sao trong sữa chẳng sanh vật khác. Đem chất độc pha vào trong sữa, lúc sữa đó thành lạc, thời chất lạc đó giết chết người, vì thế nên chẳng nên nói rằng trong sữa quyết định không có chất lạc.

Nếu nói chất lạc từ nơi khác mà sanh, thời cớ gì trong nước lã chẳng sanh chất lạc, mà phải từ nơi sữa, vì thế nên chẳng nên nói chất lạc từ nơi khác mà sanh.

Này thiện nam tử! Bò cái kia ăn cỏ tiêu hóa biến thành bạch huyết, do phước lực của chúng sanh, cỏ huyết biến thành sữa. Sữa này dầu từ nơi cỏ huyết mà ra, nhưng chẳng đặng nói là hai thứ, chỉ đặng gọi là từ nhân duyên mà sanh. Chất lạc, nhẫn đến đề hồ cũng lại như vậy.

Do nhân duyên nên sau khi sữa mất biến thành chất lạc, ủ đông, hâm nóng, đó là nhân duyên. Nhẫn đến đề hồ cũng lại như vậy. Vì thế nên chẳng đặng nói quyết định rằng trong sữa không có tướng lạc. 

Nếu nói từ nơi khác mà sanh, thời ngoài sữa không do đâu để có chất lạc.

Phật dạy đừng nói quyết định. Đừng nói trong sữa quyết định có chất lạc, cũng đừng nói quyết định không có chất lạc, hay nói do nơi khác cũng không được. Cũng thế, nếu quyết định mình có Phật tánh sẵn rồi thì cần gì cầu thành Phật. Nhưng mà nói không cũng không được, nói không tức là nói dối. Vì vậy ở đây phải khéo biết rằng, tuy có mà nhân duyên mê, Phật tánh bị ẩn khuất đi, nhân duyên ngộ thì hiển bày, chứ không nói một cách quyết định theo lối thường. Vì hai quyết định đó đều không đúng, chỉ nói tùy duyên mà có hay do nhân duyên mà có.

Tóm lại, do nhân duyên bị vô minh che lấp, cũng do nhân duyên mà Phật tánh được hiển lộ, tất cả đều là nhân duyên.

Này thiện nam tử! “Minh” cùng “vô minh” cũng lại như vậy. Nếu chung với phiền não thời gọi là vô minh, nếu chung với tất cả pháp lành thời gọi là minh. Do đó nên ta nói không có hai tướng. Vì thế nên trước kia ta nói bò cái ăn cỏ phì nhị ở núi Tuyết, thời sanh thuần chất đề hồ. Phật tánh cũng vậy.

Này thiện nam tử! Do vì phiền não che đậy nên chúng sanh chẳng thấy Phật tánh, như người phước bạc chẳng thấy được cỏ phì nhị.

Như trong biển lớn, dầu đồng một vị mặn, nhưng trong đó cũng có nước ngọt ngon, vị đồng như sữa. Như nơi núi Tuyết, dầu sanh nhiều cỏ thuốc, nhưng cũng có cỏ độc.

Thân của các chúng sanh cũng lại như vậy, dầu có giống rắn độc tứ đại, nhưng trong đó cũng có diệu dược, tức là Phật tánh. Phật tánh chẳng phải là pháp tạo tác làm ra, chỉ vì phiền não khách trần che khuất, nếu chúng sanh nào dứt trừ được phiền não, thời liền thấy được Phật tánh, thành đạo Vô thượng.

Chấp sanh diệt là mình đó là vô minh, không theo sanh diệt nữa là minh, không phải hai pháp.

Cỏ phì nhị ví dụ cho thuần các pháp lành, nếu thuần các pháp lành thì sẽ được minh, cũng như con bò chỉ ăn cỏ phì nhị thì được chất đề hồ. Cũng vậy, Phật tánh có mà bị phiền não che nên không thấy, như chúng sanh phước bạc không thấy cỏ phì nhị.

Nước biển tuy rất mặn nhưng cũng có một hai chỗ ngọt, trong núi Tuyết có nhiều cỏ thuốc nhưng cũng có cỏ độc, không nhất định. Ngay thân của chúng ta, tứ đại không hòa hợp với nhau như loài rắn độc ở chung một chỗ, nhưng vẫn chứa một thứ diệu dược, tức là Phật tánh bất sanh bất diệt ở bên trong.

Chúng ta có Phật tánh, sở dĩ không thấy vì phiền não khách trần che lấp. Nếu khéo dứt trừ phiền não thì Phật tánh hiển bày đầy đủ. Phiền não là gì? Thường thì phiền não là tham sân si... nhưng thật ra khởi tâm động niệm, dù thiện hay ác, cũng đều là phiền não. Các thiền sư thường nói “một niệm dấy lên, thiện và ác đã phân rành”.

Có phân thiện phân ác là gốc phiền não. Tâm dấy niệm liên miên là phiền não che khuất Phật tánh, nếu những vọng niệm không còn dấy lên thì Phật tánh hiển lộ.

như giữa không, giăng mây nổi sấm, trên ngà của tất cả voi đều sanh bông. Nếu không có sấm nổ, thời bông không sanh.

Phật tánh của chúng sanh cũng lại như vậy, thường bị tất cả phiền não che khuất nên chẳng thấy được. Vì thế nên ta nói chúng sanh không có ngã.

Nếu được nghe kinh điển Đại Niết-bàn vi diệu này, thời được thấy Phật tánh như bông hiện trên ngà voi.

Dầu nghe tất cả tam-muội trong khế kinh, mà chẳng nghe kinh Đại Niết-bàn này, thời chẳng biết được tướng Như Lai vi diệu. Như lúc không có tiếng sấm, thời chẳng thấy được bông trên ngà voi.

Nếu được nghe kinh này rồi, liền biết tạng Phật tánh của tất cả Như Lai nói. Như trời sấm thấy bông trên ngà voi. Được nghe kinh này liền biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.

Do nghĩa trên đây, nên nói đại Niết-bàn tạng Như Lai thêm lớn pháp thân, như lúc trời sấm, bông trên ngà voi nhờ đó mà được sanh thêm.

Nếu có thiện nam, tín nữ, có thể tập học kinh điển vi diệu đại Niết-bàn này, nên biết những người đây có thể báo được ân Phật, thật là đệ tử của Phật.

Khi trời có sấm, ngà voi sanh bông. Cũng vậy, khi nghe kinh điển Đại thừa Niết-bàn thấy được Phật tánh, như bông hiện trên ngà voi. Chúng ta nhận nơi mình có Phật tánh nhưng bị phiền não che lấp, nếu một phen hết phiền não thì Phật tánh hiển lộ. Đó là ý nghĩa chắc chắn mà kinh Đại Niết-bàn nói.

Phật tánh khó thấy, khó hiểu, khó biết, nên nói là tạng bí mật Như Lai. Vì khó thấy khó hiểu khó biết, nếu người nào thấy hiểu biết được, tức là người đó đã khai được tạng bí mật của Như Lai. Thành Phật hay thành chúng sanh, đều do biết hay không biết được tạng Như Lai.

Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Phật tánh như đã nói rất sâu, khó thấy, khó vào, hàng Thanh văn, Duyên giác không thể đến được.”

Phật nói: “Này thiện nam tử! Đúng như lời ông vừa khen, chẳng trái lời nói của ta.”

Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Thế Tôn! Phật tánh ấy rất sâu, khó thấy, khó vào như thế nào?”

Phật nói: “Này thiện nam tử! Như trăm người mù đến lương y để trị bệnh mắt. Lúc đó lương y dùng kim vàng lột màng mắt của họ, lột xong, giơ một ngón tay hỏi rằng: Thấy không? Người mù đáp rằng: Tôi vẫn chưa thấy. Lương y lại giơ hai ngón, ba ngón; người mù mới nói rằng thấy mờ mờ.

Này thiện nam tử! Kinh điển Đại Niết-bàn vi diệu này, lúc đức Như Lai chưa nói cũng lại như vậy. Vô lượng Bồ-tát dầu đầy đủ thật hành các ba-la-mật, nhẫn đến bậc Thập trụ vẫn còn chưa thấy được Phật tánh. Lúc Như Lai đã nói, mới thấy được chút ít. Lúc Bồ-tát này đã được thấy, đều nói rằng: Thế Tôn! Lạ lùng thay, chúng tôi lưu chuyển thọ vô lượng sanh tử, thường bị vô ngã làm mê lầm.

Này thiện nam tử! Bồ-tát này lên bậc Thập địa còn chưa thấy được Phật tánh rõ ràng, huống là hàng Thanh văn, Duyên giác mà có thể thấy đặng.

Này thiện nam tử! Ví như người ngước mặt nhìn đàn chim nhạn trên hư không, nhìn kỹ phưởng phất thấy dạng bầy nhạn. Bậc Thập trụ Bồ-tát đối nơi Phật tánh, thấy biết được chút ít cũng lại như vậy, huống là hàng Thanh văn, Duyên giác mà thấy biết được!

Này thiện nam tử! Ví như người say, đi trên đường xa, ngó thấy mập mờ. Bậc Thập trụ Bồ-tát đối với Phật tánh thấy biết được ít phần cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Như người khát nước, đi trong đồng trống, khắp nơi tìm nước, thấy có lùm cây, trong lùm có chim bạch hạc, người đó bị cơn khát bức ngặt, mê muội chẳng phân biệt được là cây hay là nước. Đến lúc nhìn kỹ mới biết là chim bạch hạc cùng với lùm cây. Bậc Thập trụ Bồ-tát, đối với Phật tánh, thấy biết phần ít cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Ví như có người ở trong biển lớn, nhẫn đến trăm ngàn do-tuần, trông thấy chiếc thuyền lớn ở ngoài khơi xa, liền nghĩ rằng: Đó là chiếc thuyền hay là khoảng không. Nhìn lâu, trong tâm quyết định biết là thuyền lớn. Bậc Thập trụ Bồ-tát, ở trong tự thân, thấy Phật tánh cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Ví như vị vương tử, thân rất yếu đuối, dạo chơi suốt đêm, đến sáng ngày sau, mắt mờ thấy không được rõ. Bậc Thập trụ Bồ-tát dầu ở nơi thân mình thấy được Phật tánh nhưng chưa được rõ ràng cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Ví như quan lại, vì công sự suốt đêm trở về nhà chớp nhoáng thấy bầy trâu, liền nghĩ rằng: Đó là trâu ư, hay là dãy nhà, nhìn lâu, dầu nhận là trâu mà còn chưa định chắc. Bậc Thập trụ Bồ-tát, dầu ở nơi thân mình thấy Phật tánh, chưa có thể định chắc cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Như Tỳ-kheo trì giới, nhìn trong bát nước không có trùng, mà thấy tướng trùng, liền nghĩ rằng: Trong nước đây là trùng hay bụi đất, nhìn lâu, dầu biết là bụi nhưng chẳng rõ ràng. Bậc Thập trụ Bồ-tát, ở trong thân mình thấy Phật tánh chẳng được rõ ràng lắm cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Ví như có người, xa thấy đứa trẻ đứng trong bóng tối, liền nghĩ rằng: Đó là con vật, là chim, hay là người? Nhìn lâu, dầu nhận thấy là đứa trẻ, nhưng vẫn chẳng rõ ràng. Bậc Thập trụ Bồ-tát ở nơi thân mình, thấy Phật tánh chẳng rõ ràng lắm cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Ví như có người ở trong đêm tối, thấy bức họa tượng Bồ-tát liền nghĩ rằng: Đây là tượng Bồ-tát hay là tượng thiên thần, nhìn lâu, dầu nhận là tượng Bồ-tát, nhưng chẳng rõ ràng. Bậc Thập trụ Bồ-tát ở nơi thân mình thấy Phật tánh chẳng rõ ràng lắm cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Phật tánh ấy rất sâu như vậy, khó biết khó thấy, chỉ Phật biết rõ, chẳng phải hàng Thanh văn, Duyên giác đến được. Người trí phải quan sát như vậy để rõ biết Phật tánh.

Bồ-tát Ca-diếp thắc mắc khi nghe nói Phật tánh rất sâu, khó thấy khó vào. Phật dùng mười ví dụ để chỉ Phật tánh rất sâu, khó thấy khó vào, chỉ có Phật mới thấy tường tận, đến hàng Bồ-tát Thập trụ mà cũng thấy mập mờ, huống nữa hàng Thanh văn Duyên giác. Có một số người nhận được Phật tánh nhưng không thường sống được, rồi than thở, không biết chừng nào mới sống luôn luôn với Phật tánh. Hàng Thập địa còn mờ mờ thì phàm phu chúng ta làm sao sống luôn luôn với Phật tánh! Sống luôn luôn thì là Phật rồi. Nhận ra cũng là quá tốt, sống với Phật tánh thì cần thời gian, từ từ mới quen. Chỉ có Phật với Phật mới thấy tường tận, chúng ta nếu có nhận ra cũng là mờ mờ, chợt có chợt không chợt còn chợt mất, nhưng mà đủ niềm tin là hết sức quý rồi.

Ví dụ thứ nhất, có người mù được lương y dùng kim vàng lột màng mắt, lần đầu giơ một ngón tay, không thấy; giơ hai ngón, ba ngón thì thấy mờ mờ. Bồ-tát thấy Phật tánh mờ mờ cũng giống như người mù mới lột mây nhìn tay thấy mờ mờ.

Ví dụ thứ hai, Bồ-tát thấy Phật tánh như nhìn đàn chim nhạn bay trên hư không, xa xa thấy mập mờ như mây.

Ví dụ thứ ba, người say rượu ngó thấy trời đất mập mờ không rõ ràng. Bồ-tát thấy Phật tánh mập mờ cũng như vậy.

Ví dụ thứ tư, người khát nước ở xa nhìn thấy đàn cò trắng đậu trên cây, thấy mập mờ giống như nước. Hàng Bồ-tát thấy Phật tánh mập mờ cũng như vậy.

Ví dụ thứ năm, có một chiếc thuyền lớn ở ngoài khơi, nhìn ra thấy như mặt biển xanh xanh, nhìn kỹ mới biết có thuyền. Bồ-tát thấy Phật tánh cũng như vậy.

Ví dụ thứ sáu, vương tử dạo chơi suốt đêm, đến sáng mắt mờ, nhìn thấy sự việc không rõ ràng. Bồ-tát thấy Phật tánh cũng giống như vậy.

Ví dụ thứ bảy, như quan lại làm việc suốt đêm trở về nhà chớp nhoáng, thấy bầy trâu không rõ là trâu hay là dãy nhà, nhìn lâu, dầu nhận là trâu mà còn chưa định chắc. Bậc Thập trụ Bồ-tát thấy Phật tánh, chưa có thể định chắc cũng như vậy.

Ví dụ thứ tám, như Tỳ-kheo trì giới nhìn trong bát nước không có trùng, mà thấy tướng trùng, không biết là trùng hay bụi đất, nhìn lâu, dầu biết là bụi nhưng chẳng rõ ràng. Bậc Thập trụ Bồ-tát thấy Phật tánh chẳng được rõ ràng lắm cũng như vậy.

Ví dụ thứ chín, như có người thấy đứa trẻ đứng trong bóng tối, không biết là con vật, là chim, hay là người.

Nhìn lâu, nhận thấy là đứa trẻ, nhưng không rõ ràng. Bậc Thập trụ Bồ-tát thấy Phật tánh chẳng rõ ràng lắm cũng như vậy.

Ví dụ thứ mười, như có người ở trong đêm tối thấy bức họa tượng Bồ-tát, không biết là tượng Bồ-tát hay là tượng thiên thần, nhìn lâu nhận ra tượng Bồ-tát, nhưng chẳng rõ ràng. Bậc Thập trụ Bồ-tát thấy Phật tánh chẳng rõ ràng lắm cũng như vậy.

Mười ví dụ trên để chỉ Bồ-tát thấy Phật tánh còn mờ mờ chưa rõ ràng, chỉ có Như Lai mới thấy rõ ràng. Phật tánh thật là khó nhận khó thấy. Lúc đầu mình không nhận ra, nhận ra rồi được thấy rõ ràng cũng là hết sức công phu.

Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Phật tánh vi tế khó thấy như vậy, thế sao nhục nhãn mà có thể thấy được.”

Phật bảo Ca-diếp Bồ-tát: “Này thiện nam tử! Như trời Phi tưởng phi phi tưởng kia, cũng chẳng phải hàng Nhị thừa biết được, chỉ tin theo khế kinh mà biết.

Này thiện nam tử! Hàng Thanh văn, Duyên giác tin thuận theo kinh Đại Niết-bàn này, tự biết thân mình Phật tánh.

Này thiện nam tử! Vì thế nên phải tinh tấn tu tập kinh Đại Niết-bàn. Phật tánh đó chỉ Phật biết rõ, chẳng phải hàng Thanh văn, Duyên giác đến được.”

Phật giải thích, như hàng Nhị thừa không thấy cõi trời Phi phi tưởng, chỉ tin theo trong kinh Phật mà biết. Cũng vậy, hàng Thanh văn, Duyên giác chỉ là từ kinh Đại Niết-bàn này mà biết mình có Phật tánh, thật họ không thấy. Y theo kinh Đại Niết-bàn này tinh tấn tu hành, biết được mình có Phật tánh, cái biết đó là qua niềm tin chứ chẳng phải do thấy được.

Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Thế Tôn! Hàng chúng sanh phàm phu chẳng phải thánh đều nói có ngã.”

Phật nói: “Ví như hai người làm bạn thân nhau: một người là vương tử, một người là dân hèn, hai người đó thường qua lại nhau, lúc đó người nghèo thấy vương tử có một con dao tốt, trong lòng thích muốn, thời gian sau, vương tử mang dao trốn qua nước khác. Một hôm, người dân hèn ngủ nhờ nhà người khác, giữa giấc ngủ mơ nói con dao! Con dao! Người nhà nghe được bắt nộp cho vua. Vua gạn hỏi: Nhà ngươi nói con dao, nay ở đâu? Người dân bèn thuật rõ việc trước. Nay nhà vua dầu giết thần, banh xẻ tay chân cũng không thể tìm được dao. Thần cùng vương tử vốn là bạn thân, trước kia, dầu mắt được thấy con dao, nhưng còn không dám chạm đến, huống lại cố ý lấy.

Vua lại hỏi: “Lúc nhà ngươi thấy dao, hình dạng giống thứ gì?”

Người dân bèn thưa: “Tâu Đại vương, thần thấy con dao ấy giống như sừng đen.”

Vua nghe xong, vui mừng cả cười, bảo rằng: “Nhà ngươi chớ sợ, ta tha cho ngươi, trong kho tàng của ta, đều không có thứ dao ấy, huống là ngươi thấy con dao nơi vương tử.”

Lúc đó nhà vua lại hỏi các quan: “Các khanh từng thấy con dao đó chăng?” Nói xong vua liền băng. Triều thần liền lập vương tử khác lên làm vua.

Tân vương lại hỏi các quan: “Các khanh từng thấy con dao đó chăng? Hình dáng nó như thế nào?”

Các quan đồng tâu: “Chúng thần từng thấy hình nó như sừng dê đen.”

Vua nói: “Trong kho tàng của ta, chỗ nào mà có thứ dao hình dạng như vậy?”

Lần lượt bốn vị tân vương tra tìm con dao ấy đều chẳng đặng.

Sau đó, vị vương tử đào vong ngày trước, trở về nước, được tôn làm vua. Khi lên ngôi xong, tân vương này lại hỏi các quan: “Các khanh có thấy con dao đó chăng? Hình dạng nó thế nào?”

Các quan tâu: “Chúng tôi đều thấy.” Rồi đua nhau trình bày hình dáng của con dao. Người thì nói sắc dao thanh tịnh như hoa sen xanh. Người lại nói hình như sừng dê. Người thì nói dao màu hồng đỏ như lửa. Người lại nói dao đen tuyền như rắn đen.

Nhà vua cả cười bảo: “Các khanh đều chẳng thấy biết hình dáng thật của con dao của ta.”

Này thiện nam tử! Bồ-tát xuất hiện nơi đời nói tướng chân thật của ngã cũng như vậy. Nói xong bỏ đi. Như vương tử mang con dao tốt trốn qua nước khác.

Người phàm phu ngu mê cho rằng tất cả đều có ngã, có ngã. Như người dân hèn ngủ nhờ nhà người khác, mơ nói con dao! Con dao!

Hàng Thanh văn, Duyên giác hỏi các chúng sanh, tướng của ngã như thế nào? Đáp rằng: “Tôi thấy tướng của ngã lớn bằng ngón tay cái. Có kẻ nói, như hột gạo. Có kẻ nói như hột cỏ. Cũng có kẻ nói tướng của ngã ở trong tâm, sáng rỡ như mặt trời.”

Những chúng sanh đó đều chẳng biết tướng của ngã. Như các quan chẳng biết hình dáng của con dao.

Bồ-tát nói tướng trạng của ngã, hàng phàm phu chẳng rõ biết, vọng tưởng ra các hình tướng của ngã, như những người nói hình dáng của con dao, giống như sừng dê đen v.v...

Các hạng phàm phu đó, tuần tự nối nhau mà sanh những tà kiến.

Vì dứt những tà kiến đó, nên đức Như Lai hiện ra đời, nói pháp vô ngã. Vương tử bảo các quan: Trong kho tàng của ta không có thứ dao như vậy.

Này thiện nam tử! Hôm nay đức Như Lai nói ngã chân thật gọi là Phật tánh. Phật tánh như vậy ở trong Phật pháp của ta, như con dao tốt kia.

Thiện nam tử! Nếu có kẻ phàm phu có thể nói đúng, đó chính là do vì tùy thuận Phật pháp vô thượng. Nếu có người khéo phân biệt tùy thuận tuyên nói như đây, nên biết người đó chính là Bồ-tát.

Ngài Ca-diếp thưa, ở trong kinh này Phật nói ngã là chỉ cho Phật tánh, phàm phu cũng nói có ngã, vậy phàm phu biết có Phật tánh không? Họ nói có ngã là do tưởng tượng thôi, thật ra họ không thấy được Phật tánh.

Phật dùng ví dụ người thấy bạn mình là một vương tử có con dao đẹp, rất thích. Sau vương tử này bỏ trốn ra khỏi nước, người kia nằm ngủ mớ kêu “dao, dao”, bị bắt nộp cho vua, và bị tra hỏi hình dáng của dao, không nói trúng. Vua cười nói, “trong kho ta không có thứ dao này.”

Con dao là dụ cho Phật tánh, vị vương tử dụ cho Bồ-tát hoặc Phật mới biết được dao đó, người dân thường kia dụ cho phàm phu chúng ta, không được ngã rồi tưởng tượng ngã là hột gạo, ngã to như mặt trời... Như tưởng tượng mình có linh hồn thế này hoặc thế nọ, chỉ tưởng tượng không thấy được lẽ thật. Ngã mà Phật nói là ngã thấy được, giác được. Bá quan diễn tả con dao sai hết là dụ cho tất cả ngoại đạo, hoặc hàng Thanh văn Duyên giác, nói không tới nơi, chỉ có Phật mới thấy được ngã rõ ràng.

Đồng nói ngã mà phàm phu nói ngã ở trong mộng tưởng, Phật nói ngã là chỉ thẳng cho Phật tánh. Nếu đạt được Phật tánh thì mới thấy cái ngã chân thật, còn không đạt được Phật tánh mà nói ngã thì chỉ là vọng tưởng không thật. Phật tánh có nơi tất cả chúng sanh nhưng vì phiền não che đậy, không thấy không biết nên cho là không, bao giờ dẹp hết phiền não rồi thì Phật tánh hiển lộ rõ ràng.

 

Kinh - Luật - Luận

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 80953
  • Online: 37