Giáo Từ Môn Hạ Trước Khi Vào Thất (Phần 01): Hòa Thượng Nhắc Nhở Ni Chúng Thiền Viện Viên Chiếu
31/07/2025 | Lượt xem: 31
HT.Thích Thanh Từ
Lời bạch của Ni trưởng Trụ trì Viên Chiếu:
Nam-mô Phật Bổn sư Thích-ca-mâu-ni,
Ngưỡng bạch Thầy,
Hôm nay là ngày cuối năm, Thầy vào thăm chúng con. Đã từ bao năm qua, lúc nào bước chân Thầy cũng hiện diện tại thiền viện Viên Chiếu chúng con, từ lúc còn là một mái tranh vách lá đơn sơ. Thầy đã không từ lao nhọc vạch rừng, lội qua những bụi gai mắc cỡ vào đây để hướng dẫn chỉ dạy chúng con. Nhờ lòng từ của Thầy, chúng con dần lớn lên và trưởng thành. Có rất nhiều huynh đệ ở Viên Chiếu đã đi khắp nơi dạy dỗ, hướng dẫn Phật tử đúng như lời chỉ dạy của Thầy. Và cũng trong thời gian đó, chúng con luôn luôn được đi theo bước chân của Thầy, chuyển hóa tất cả những tâm niệm si mê vọng tưởng của mình.
Chúng con thiết nghĩ, nếu không có sự chỉ dạy của Thầy hẳn giờ đây chúng con đã làm uổng phí chí nguyện của mình, làm mất đi cơ hội trở thành một pháp tử của Như Lai. Với ân đức sâu dày của Thầy, với tất cả niềm hạnh phúc và cảm nghĩ của chúng con, chúng con không biết làm sao diễn bày cho được.
Con vẫn nhớ những ngày tháng Thầy cũng ngồi tại chỗ này, trong một khung cảnh đơn sơ hơn. Ở đó Thầy đã hướng dẫn những bộ kinh Đại thừa, luôn luôn răn nhắc, sách tấn và khuyến khích chúng con tu tập theo hạnh Bồ-tát, luôn luôn phải tỉnh giác để buông bỏ những vọng chấp. Bởi vì nếu không buông bỏ vọng chấp thì không thể nào phát lòng từ rộng lớn được. Cho tới bây giờ, chúng con không dám ước mơ gì hơn, chúng con thấy Thầy đã mệt nhọc quá nhiều, chúng con không dám đòi hỏi, không dám nài thỉnh Thầy phải mệt nhọc vì chúng con.
Giờ đây Thầy đã nghỉ ngơi để dành riêng thời giờ cho mình. Bởi vì thời gian qua Thầy chỉ sống vì tăng ni và Phật tử, không có một chút thời giờ nào là thời giờ của Thầy. Trước những dự định và việc làm của Thầy, chúng con một lòng cung kính tôn trọng. Giờ đây đối trước Thầy, con xin thay lời tất cả các huynh đệ con và hàng cháu chắt của Thầy, nguyện cố gắng tu tập, ghi nhớ những gì Thầy đã lao công mệt sức, tận tâm chỉ dạy. Mỗi đứa tự nỗ lực, cố gắng tu tập cho xứng đáng, để thời gian trong thất của Thầy không có một chút gì bận tâm về chúng con. Đó là lời ước nguyện và lời phát nguyện thứ nhất của chúng con, chúng con dâng lên Thầy, ngưỡng mong Thầy từ bi chứng minh.
Lời ước nguyện thứ hai của chúng con là, chúng con ngưỡng cầu uy lực Tam bảo gia hộ cho Thầy trong thất không bị tất cả những chướng duyên và không bận tâm vì những tin tức bên ngoài của chúng con, để thời gian của Thầy được trọn vẹn. Chúng con biết rằng, sự thành tựu của Thầy chính là sự thành tựu của Thiền tông Việt Nam, mà trong đó hàng tăng ni và Phật tử chúng con cũng được nương nhờ phước lực. Cho nên, chúng con hết sức kính cẩn cầu nguyện Thầy ở trong thất tứ đại luôn an hòa và việc lớn được thành tựu như nguyện. Đó là lời ước nguyện thứ hai của chúng con, ngưỡng mong Thầy từ bi chứng minh.
Giờ này, chúng con cung kính thỉnh Thầy chỉ dạy, con không dám nói và không dám nghĩ là lần sau chót, chỉ cung kính thỉnh nguyện, cầu xin Thầy từ bi khai thị cho chúng con, để chúng con khắc cốt ghi tâm và ghi nhớ mãi mãi phút giây này, tự tiến bước, tự thanh tịnh bản tâm của mình để làm tròn bổn phận Thầy đã giao phó.
Con kính mong Thầy từ bi hoan hỷ chấp thuận.
Nam-mô Phật Bổn sư Thích-ca-mâu-ni.
Hòa thượng dạy:
Những năm trước, Thầy thường xuyên tới lui Viên Chiếu để nâng đỡ tinh thần cho tụi con. Khi xưa, lúc Thầy đưa tụi con về đây là một điều bất đắc dĩ. Do phương tiện kinh tế nên Thầy phải dồn tụi con vào khu rừng hoang vắng này. Lúc đó nhiều người nghĩ rằng, thời gian sau sẽ không còn ai chịu nổi, nhưng với tinh thần cương quyết, tụi con đã đặt nặng chánh pháp hơn cái nghèo khó. Trải qua bao nhiêu năm, từ một mái nhà lá trong khu rừng hoang đã trở thành một thiền viện tương đối khang trang. Đó là bước tiến vượt bậc về hình thức, cũng là điều không ngờ của tụi con.
Ở thế gian không có việc gì chúng ta làm không xong, nếu mình lập chí và quyết tâm, dù khó mấy cũng đến được thành công. Nhất là người biết tu, dù thân phải sống trong hoàn cảnh khó khổ, nghèo túng vẫn không nệ hà. Miễn sao có chánh pháp để tu và thấu suốt được đạo lý là điều đáng quý nhất. Lúc trước tụi con trên dưới ba mươi người, ngày nay chùa chiền khang trang, ni chúng đông đảo hơn rất nhiều. Đây là điều kỳ diệu của người tu. Sự thành công này đã đánh tan bao cái nhìn lầm lẫn của người đời. Họ cho rằng tụi con yếu đuối, vào trong rừng sẽ không thể chịu đựng được. Vậy mà ngoài sức chịu đựng tốt, còn phát triển thêm về nhiều mặt. Thầy tin chắc, nếu chúng ta đi đúng con đường chánh pháp, nhất định Hộ pháp luôn luôn gia trì.
Tụi con có đầy đủ phúc duyên lành nên thâm hiểu được giáo lý nhà Phật, thấy rõ con đường sáng phía trước mà cương quyết đi mãi tới cùng. Với tinh thần đó, tụi con xứng đáng gầy dựng được đạo tràng tương đối trang nghiêm thanh tịnh. Ngoài Phật sự trong nước, tụi con còn lãnh nhiều trách nhiệm đối với một số đạo tràng ở nước ngoài. Đó cũng là điều kỳ diệu. Tuy những việc làm này đều dưới sự sắp đặt của Thầy, nhưng với tâm thành cương quyết, tụi con đã đạt nhiều thành công lớn. Ngang đây Thầy buông tay, tất cả mọi công tác về dài lâu tự huynh đệ tụi con chung lo. Thầy chỉ giúp tụi con có đà tiến ban đầu, sau này thành công nhiều hay ít không phải phần của Thầy.
Huynh đệ đoàn kết một lòng vì Phật sự, làm sao đối với ni chúng cũng như Phật tử, tụi con xứng đáng để họ nương tựa tu hành. Việc giáo hóa cần yếu phải đúng thời điểm và cơ duyên. Ngõ hầu mọi người đều hoan hỷ sống trong nền đạo lâu dài và tu hành đạt kết quả tốt. Đây là công tác tụi con đang làm và sẽ làm ở mai sau.
Đối với Thầy, bao nhiêu cái khó của tụi con ngày nay không là gì hết. Mấy chục năm qua, tụi con đi đâu làm gì đều có Thầy chống đỡ mọi khó khăn, nhờ vậy thành công được dễ dàng. Khi xưa, lúc Thầy đi tìm lối tu thích hợp cho bản nguyện của mình, không có người thứ hai nâng đỡ, nhưng Thầy vẫn cố gắng làm được. Từ một cá nhân đơn độc gầy dựng thành kết quả tốt đẹp như ngày hôm nay, là nhờ Thầy giữ vững nguyện xưa và luôn được Long thiên Hộ pháp ủng hộ.
Trên đường tu, nếu chúng ta quyết tâm đi đúng đường lối Phật tổ dạy, chắc chắn không ai phụ lòng mình, không ai ngăn trở bước tiến của mình. Đó là kinh nghiệm bản thân Thầy đã trải qua. Thầy mong từ đây về sau, nếu tụi con có gặp gai góc ngăn trở, phải né tránh mà tiến tới, phải dũng cảm đối đầu trước khó khăn, lau lách vượt qua chứ không vì khó khăn mà chùn bước. Đây là những điều tối thiết yếu. Một việc làm thành công luôn có trở lực ngăn cản. Nếu chúng ta yếu ớt, nó sẽ trở thành tai họa phá hỏng Phật sự của mình. Nếu chúng ta khéo léo quyết tâm, trở lực đó sẽ giúp mình khôn ngoan mạnh mẽ hơn.
Thời gian Thầy ra nước ngoài, đôi ba lần gặp khó khăn nhưng Thầy đều lau lách qua được. Người ta mến chuộng mình không phải do tài năng nổi bật mà chính là lòng chí thành đối với Phật pháp. Đừng vì bất cứ điều gì cản trở khiến chúng ta kinh hoàng sợ hãi. Chúng ta vẫn tiến trong sự khó khăn, nhưng phải khéo léo lau lách khỏi những đòn roi ác hiểm. Nhờ vậy người Phật tử càng mến thương chúng ta và sự truyền bá đạo lý mới được dễ dàng.
Sự thành công của Thầy ngày nay về mặt hình thức thì tương đối, nhưng đối với đạo chưa thấm vào đâu. Nhiều người mong mỏi làm được các Phật sự giống như Thầy, tuy nhiên Thầy thấy không có gì hết. Thầy đang là người đi tay không, chắc chắn sẽ về tay không. Kinh điển tuy nhiều nhưng chỗ tựa của Thầy đúc kết gọn trong bài thơ:
Kinh điển lưu truyền tám vạn tư,
Học hành không thiếu cũng không dư,
Đến nay tưởng lại chừng quên hết,
Chỉ nhớ trên đầu một chữ Như.
Đây cũng là bước tiến rốt sau của người tu.
Mai kia có khi gặp tụi con Thầy lại quên. Mà quên như vậy tụi con có tủi không?
- Dạ tủi.
- Phàm tục quá! Nếu nhớ đứa này đứa kia rồi rầy trách mới đáng buồn. Thầy quên hết để trong đầu chỉ còn nhớ một chữ Như là điều đáng mừng chứ.
Ngày xưa Thầy từng nói mình là con mọt sách. Nếu chỉ một bề đọc kinh chữ Hán, đến chừng nói pháp e có nhiều chỗ không được người ta tín nhiệm, cho nên Thầy mơ ước phải đọc được hệ Pϩli. Bộ kinh Nikϩya do Hòa thượng Minh Châu dịch, Thầy đọc tối thiểu ba lần. Thầy rất mang ơn Hòa thượng vì Thầy có khả năng đọc chữ Hán chứ không đọc được chữ Pϩli. Cuốn nào Hòa thượng Minh Châu dịch, Thầy đều đọc tới đọc lui, sau đó đối chiếu với bản Hán văn. Về nội dung, hai bản này không có gì sai lệch, chỉ khác ở chỗ rút gọn hoặc để nguyên văn. Bên Pϩli là bản gốc dạng nói, bên chữ Hán là bản viết nên dịch gọn hơn. Một câu chuyện trong kinh, bên Pϩli nói hai ba lần cho nên phải có thiện chí lắm mới đọc được.
Trên đường tu, Thầy ráng chịu cực mày mò tìm kiếm những cái hay của đạo, sau đó đúc kết thành đường lối tu. Ban đầu Thầy nghi, không biết tại sao đức Thế Tôn đi tu vì muốn độ chúng sanh mà sau khi giác ngộ viên mãn dưới cội Bồ-đề, ngài muốn nhập Niết-bàn liền? Điều đó thật khó hiểu! Lẽ ra với tâm từ bi quảng đại, lý đáng ngài phải đem sự thành tựu của mình nói cho chúng sanh biết để tu theo, đằng này Phật không muốn nói. Chư thiên đôi ba phen xuống cầu thỉnh, Phật bảo: “Chỗ ta thấy biết, nói ra chúng sanh không hiểu.” Chư thiên thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Xin Ngài mở bày phương tiện giáo hóa chúng sanh, như thế chúng sanh sẽ hiểu và tin theo lời dạy của Ngài.” Từ đó Phật bắt đầu khởi sự đi hoằng hóa.
Pháp của Phật là những phương thuốc trị lành tâm bệnh chúng sanh. Bệnh hết, thuốc phải bỏ bởi vì thuốc chỉ là phương tiện. Trong kinh Kim Cang Phật dạy, pháp của ngài như chiếc bè đưa người qua sông, lên tới bờ phải bỏ bè. Kinh Viên Giác Phật nói, pháp của Phật như ngón tay chỉ mặt trăng, nương ngón tay để thấy mặt trăng, thấy mặt trăng rồi không cần ngón tay nữa. Tóm lại, từ các bộ kinh Nguyên thủy cho đến Đại thừa đều là phương tiện Phật muốn chỉ bày.
Đối với sự cứu cánh, Phật phải chờ đúng cơ duyên mới nói, bởi ngài biết chắc nếu nói ra sớm chúng sanh chưa nhận hiểu được. Trong hội Linh Sơn, Phật đưa cành hoa sen lên rồi đưa mắt nhìn cả hội chúng xem ai hiểu được hành động của mình. Mọi người đều ngơ ngác, chỉ riêng ngài Ca-diếp mỉm cười. Đức Phật liền tuyên bố: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng nay trao cho Ca-diếp.”
Chánh pháp nhãn tạng là chánh pháp từ kho con mắt. Phật nhìn ngài Ca-diếp, ngài Ca-diếp nhìn Phật mỉm cười, gọi là “tứ mục tương cố”. Chánh pháp nhãn tạng nằm ngay chỗ đó, thật là dễ nhận. Vậy mà ngày xưa Thầy đọc hoài không hiểu, nhãn tạng là kho con mắt, kho con mắt là sao? Tới đây Thầy đã thấy tường tận chánh pháp nhãn tạng là kho tàng con mắt trí tuệ Phật truyền cho ngài Ca-diếp.
Chỗ chân thật Phật muốn chỉ luôn hiện hữu nơi mỗi chúng sanh, không phải chuyện xa xôi thiếu thực tế. Nếu nói ra sớm người ta sẽ không tin, buộc lòng Phật phải dạy tu cách này cách kia, dần dần mới đi đến chỗ tột cùng. Đa số chúng ta dễ tin và tu theo những phương pháp có thứ bậc lẫn hình thức. Nếu Phật chỉ thẳng cái không hình thức sẵn có, chúng sanh thấy dễ sẽ coi thường và không chịu nhận. Trước Thầy nghĩ pháp của Phật rộng sâu nên ráng đọc hết ba tạng kinh. Tới chừng đọc xong mới thấy tất cả pháp đều là phương tiện, không phải chỗ cứu cánh.
Chỗ cứu cánh nằm sẵn nơi mỗi chúng ta, điều này đúng với tinh thần trong nội dung bài thơ trên. Một khi nhận chân được cái chân thật bất sanh bất diệt, phương tiện cũng phải buông. Gần đây, kinh của Thầy chất đầy trong tủ. Ai gửi cuốn gì tới Thầy cũng nhìn qua rồi để xuống. Đọc kinh để tìm ra cái mới, nhưng nhận được cái thật ngay nơi mình rồi thì chẳng cần gì nữa. Tới đây Thầy chỉ còn nhớ một chữ “Như”, thực là chỗ chí thiết nhất.
Chư tổ ngày xưa luôn dùng con mắt và lỗ tai làm phương tiện dẫn dắt học nhân đến gần chỗ chân thật. Hỏi thế nào là đạo, đưa cây phất tử lên. Hỏi thế nào là đại ý Phật pháp, liền hét hoặc đánh. Khi chưa hiểu, Thầy thấy hành động của quý ngài rắc rối thô bạo quá. Ngày nay, Thầy đã nhận được thâm ý quý ngài muốn chỉ. Chúng ta thường có bệnh, đi hỏi thiện tri thức muốn được trả lời để nương theo đó nhận hiểu. Đây không phải chỗ chỉ thẳng.
Tiếng hét hoặc cú đấm bất ngờ của thiền sư giúp học nhân ngay đó bặt suy nghĩ. Mỗi lần thiền tăng hỏi đạo thiền sư Đức Sơn, ngài liền cho ăn một gậy. Thật quá dễ hiểu! Vừa dấy niệm là ăn đòn, hết dấy niệm thì vào được cửa. Niệm khởi là những suy nghĩ hơn thua, tốt xấu, phải quấy, sanh diệt không ngừng. Chừng nào lặng hết niệm khởi thì được định, tức là tâm chân thật hiện tiền.
Muốn được định, ngay khi niệm khởi liền buông, gọi là trực chỉ. Tu thì phải can đảm nhìn thẳng vào tâm mình, thấy vọng khởi liền buông một cách dứt khoát. Đạo Phật là đạo giác ngộ, thấy biết tường tận cái hư dối tạm bợ phải bỏ để sống với tâm chân thật sẵn có, gọi là giác. Thiền tông sử dụng phương pháp trực chỉ, chứ không dùng lòng tin. Mê là chúng sanh, giác là Phật. Nhận ra bản tánh nơi tâm mình là kiến tánh thành Phật. Đây là điều thiết yếu người học Phật cần nắm vững.
Trước đây Thầy giảng quanh co, dùng cái này cái nọ để người nghe có chỗ tựa, bây giờ Thầy chỉ thẳng lẽ thật. Nhận được lẽ thật, trên đường tu không còn gì bận bịu. Nghiệp là cái dẫn chúng sanh đi trong luân hồi lục đạo, vừa khởi niệm là tạo nghiệp. Niệm thiện tạo nghiệp lành, niệm ác tạo nghiệp dữ. Cả hai đều là gốc trầm luân sanh tử, cho nên muốn hết sanh tử phải không còn hai bên thiện ác. Tới đây phải làm sao nữa?
Trong mười bức tranh chăn trâu, khi không còn trâu và không còn thằng chăn, người ta tưởng ngang đó hết nhưng không phải. Phật dạy cần nhảy qua một bậc nữa là “lá rụng về cội, chim bay về tổ, thể nhập pháp thân”. Pháp thân ở đâu? Ngay nơi tâm không khởi niệm. Không khởi niệm do cố kềm được định, niệm đó bị kẹt ở Niết-bàn gọi là Diệt tận định. Không khởi niệm mà hằng tri hằng giác, trùm khắp pháp giới tức là pháp thân. Cái thể của pháp thân không hình tướng, không sanh diệt nhưng tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy vì có cái biết luôn thường trực.
Thế nhưng, lâu nay chúng ta thường bỏ quên và nhận thân vô thường làm thân mình, suy nghĩ lăn tăn trong đầu làm tâm mình. Vì thế Phật mới quở chúng sanh mê lầm. Sống với thân phận con trưởng giả không chịu, chấp nhận bỏ nhà đi lang thang sau thành kẻ nghèo khổ. Chúng ta tự sẵn có cái chân thật, ngày nay được thiện hữu tri thức nhắc nhở mà không can đảm nhận và sống với nó là lỗi tại ai? Một bên sanh diệt, một bên không sanh diệt. Một bên có sẵn, một bên chợt có chợt không. Bỏ cái nào dễ? Trở về cái có sẵn rất dễ, bỏ cái sanh diệt cũng rất dễ. Mỗi khi ngồi thiền thấy tâm chạy theo vọng tưởng lăng xăng, phải tự trách “sao ngu dại vậy”. Cái lăng xăng lặng rồi, cái thật sẽ hiện tiền. Nghe thấy rõ ràng, không hề thiếu vắng.
Việc tu tuy khó nhưng xét về lý lại rất dễ. Cái chân thật sẵn có, chỉ cần nhớ là được. Cũng vậy, ngọc sẵn trong túi áo, thò tay vô lấy, quá dễ. Chỗ này tụi con tự nghiệm rồi ráng tu. Can đảm sống lại với chính mình, đừng chạy theo ngoại cảnh bên ngoài bởi vì nó là sợi dây lôi chúng ta đi trong lục đạo. Đường lối Thầy dạy trực chỉ, không quanh co. Biết cái giả thì không theo, nhận ra cái thật để sống được với nó là người có trí tuệ. Mê và giác cách nhau không quá gang tấc, nếu không chịu nhận rồi than thở cầu cứu chỗ này chỗ kia thì thật oan uổng cho mình. Vì vậy, tu mà đi đúng đường hướng thì dễ đạt kết quả tốt.
Ngài Trần Nhân Tông lúc còn làm Thái thượng hoàng từng nói: “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.” Vô tâm tức là không còn chạy theo ngoại cảnh, ngay đó là thiền. Nếu tìm thiền ở sách này sách kia, rốt cuộc không tới đâu hết. Trên đường tu, tụi con cố gắng quay về, đừng đi lạc hướng. Trong kinh nói tu ba vô số kiếp mới thành Phật, thấy dường như khó nhưng không phải. Phật nói như vậy vì căn cứ vào Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng là vô số kiếp thứ nhất. Lên Sơ địa tới
Bát địa là vô số kiếp thứ hai. Từ Bát địa tới Đẳng giác, Diệu giác là vô số kiếp thứ ba. Tại sao có ba chặng mà lại là vô số kiếp?
Người học trò muốn tiến từ cấp 1 lên cấp 2 cấp 3 phải trải qua số năm học đã định sẵn. Tuy nhiên, đứa nào dốt quá phải học nhiều hơn, đứa nào thông minh thì rút ngắn lại. Cũng vậy, ba vô số kiếp là thời gian tạm đặt, thành tựu Phật đạo sớm hay muộn là tùy vào mỗi người. Tinh tấn thì tiến nhanh, lười biếng thì tiến chậm, không nhất định. Khi xưa, đức Phật Thích-ca và đức Di-lặc tu một lượt mà đến giờ đức Di-lặc chưa thành Phật, trong khi đức Thích-ca đã thành Phật hơn hai ngàn năm trăm năm. Đó là ý nghĩa thiết thực lời Phật dạy trong kinh.
Việc tu không khó, khó vì không đi đúng đường hướng, loanh quanh không biết chừng nào đạt được kết quả. Sự hướng dẫn của Thầy đã rõ, mong rằng tụi con thấu hiểu tường tận để sự tu được kết quả tốt. Đi trên con đường giác ngộ, tuy chưa viên mãn cũng được đôi phần. Đừng biến mình thành kẻ mê muội, mơ màng không biết mình sẽ đi về đâu. Đó là điều yếu dở tụi con phải tránh. Thầy mong tụi con từ đây về sau cùng cố gắng, mạnh dạn đi đúng đường hướng Thầy chỉ dạy, nhất định được kết quả như sở nguyện.
Các bài mới
- Quên mình theo vật - 17/07/2025
- Ý nghĩa hình tượng Bồ-tát Quán Thế Âm - 13/07/2025
- Điều Phục Thân Tâm - 10/06/2025
- Nói Rõ Đường Lối Tu Hành - 27/05/2025
- Đạo Phật Là Đạo Giác Ngộ - 28/04/2025
Các bài đã đăng
- Đức Phật Là Bậc Vô Thượng Y Vương - 26/04/2025
- Ý nghĩa xuất gia - 04/03/2025
- Niềm Vui Chân Thật - 01/02/2025
- Phật Thành Đạo - 02/01/2025
- Tinh Thần Giáo Ngoại Biệt Truyền - 24/12/2024
Pháp Thoại
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 75162
- Online: 25