Đường trở về
25/03/2016 | Lượt xem: 5712
Ai đã từng đọc kinh Pháp Hoa chắc rằng không thể quên câu chuyện: đứa con ông Trưởng Giả bỏ cha đi lưu lạc lang thang, làm gã cùng tử thật đáng thương. Từ địa vị là con một ông Trưởng Giả giàu có, gia tài, sự sản không thể tính kể, đó là một kho tàng mà mình sẽ thừa hưởng chứ không ai khác; nhưng đành bỏ đi lang thang, ăn mày từ nơi này sang nơi khác, đến nỗi mỗi ngày càng xa quê cũ
Rồi    trong một giây phút nào đó, trên bước đường lưu lạc đó đây, bỗng dưng    gã đi ăn xin lần lượt trở về đúng vào ngôi nhà xưa ấy, gặp ngay người    cha ấy, nhưng nào có hay biết, vì đã quên mất cội gốc của mình từ  lâu.   Đã tự mang mặc cảm mình là kẻ ăn mày lang thang không ra gì, thì  đối với   một người cha giàu có, sang trọng như vua chúa kia bao giờ dám  ngó  đến,  nói chi là nhận đó làm cha. Đọc câu chuyện trên, chúng ta  cảm thấy   thương tiếc cho gã cùng tử đó vô cùng! Song xét lại, chúng ta  ngày nay   có khác gì với gã cùng tử kia! Mỗi người chúng ta hiện nay,  đâu không   phải là kẻ ĐANG THỪA KẾ MỘT GIA SẢN VÔ VÀN TRÂN QUÍ, mà đành  bỏ đi lang   thang trong khắp nẻo luân hồi, làm khách phong trần đói  khát, khổ sở! 
Điều   đó không có gì lạ, bởi chúng ta ai ai cũng  có đủ một ông cha “CHẲNG   SANH CHẲNG DIỆT”, với một kho tàng “CÔNG ĐỨC  TRÍ TUỆ VÔ BIÊN”, dùng mãi   không hết, song vì một niệm bất giác chợt  dấy lên, nên đành quên đi, để   trôi dạt theo dòng thức sanh diệt và  đuổi bắt những pháp hư ảo bên   ngoài, đến phải nhọc nhằn lăn lộn trong  ba đường, sáu nẻo, lên xuống   không ngừng. Càng theo cái sanh diệt hư  huyễn thì càng xa cái chơn thật   vô sanh, tức càng ngày càng xa quê  hương chính mình. Cảm sâu ý nghĩa   này, vua Trần Thái Tông đã nói trong  bài kệ NÚI THỨ NHỨT, sách Khóa Hư   Lục: 
        Chân tể huân đào vạn tượng thành, 
        Bản lai phi triệu hựu phi manh. 
        Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm, 
        Khước bối vô sanh thọ hữu sanh. 
        Tỷ trước chư hương thiệt tham vị, 
        Nhãn manh chúng sắc nhĩ văn thanh. 
        Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách, 
        Nhựt viễn gia hương vạn lý trình. 
Tạm dịch: 
        Trời đất nấu nung vạn tượng thành, 
        Xưa nay không móng cũng không manh. 
        Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm, 
        Liền trái không sanh nhận có sanh. 
        Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị, 
        Mắt mờ chúng sắc, tiếng mê tai. 
        Lang thang làm khách phong trần mãi, 
        Ngày cách quê hương muôn dặm trình. 
            (HT. Thích Thanh Từ dịch) 
Muôn    tượng muôn vật giữa thế gian này vốn không có đầu mối, không do ai  làm   ra cả, mà chỉ do trời đất, âm dương nấu nung, chuyển hóa, ngưng  đọng  mà  hiện thành. Đây là ngầm ý nói, mọi vật do mê mà hiện, thật  không có  mối  manh sanh ra. Tức ngay khi sanh là không sanh. Bởi vậy,  con người  vốn ở  trong thể không niệm, không sanh, nhưng vừa chợt có  niệm khởi  liền sai  đi, ngay đó trái với thể không sanh mà nhận lấy có  niệm, có  sanh. Đó là  trôi dạt theo dòng sanh diệt mà kinh Lăng Nghiêm  gọi là  “VỐN Ở TRONG THỂ  THANH TỊNH SẴN NHƯ VẬY, MÀ BỖNG DƯNG PHÁT SANH  NÚI  SÔNG, QUẢ ĐẤT”  (thanh tịnh bản nhiên hốt sanh sơn hà đại địa).  Chính ở  một niệm khởi  này, nên đành trái với cội nguồn không sanh, bỏ  mất chơn  thể hàng hữu,  mà đi xa dần, xa dần trong kiếp sanh tử. Rồi  mũi đắm theo  các mùi hương,  lưỡi tham lấy nơi vị, mắt bị mờ với các  sắc, tai thì mê  bởi những  tiếng, tức là sáu căn chạy đuổi theo sáu  trần, bị nó lôi đi  mãi, quên  mất cả đường về. Vì vậy mới nói rằng, LÀM  KHÁCH PHONG TRẦN  LANG THANG  MÃI, mỗi ngày mỗi ngày càng đi xa quê  hương không biết bao  nhiêu dặm  trình mà kể. Nghĩ lại có thật đáng  thương cho mình chăng? Đó  là nói  chúng ta đã bỏ mất QUÊ HƯƠNG CHÂN  THẬT SÁNG NGỜi MUÔN THUỞ mà đi  nhận  lấy những BÓNG DÁNG HƯ HUYỄN CHẬP  CHỜN TRÊN ĐƯỜNG trần ai mê  muội, rồi  vui theo những cái vui tạm bợ,  chợt có chợt không, nên chưa  bao giờ biết  được niềm vui bất diệt tại  quê nhà. Chính vì thế, Đức Phật  mới ra đời  để đánh thức chúng ta nhớ  lại. Chư Tổ ra đời, dùng mọi cách  để khơi dậy  chỗ này. Vậy thì, bây  giờ chúng ta LÀM SAO TRỞ VỀ? và biết  ĐÂU LÀ CON  ĐƯỜNG TRỞ VỀ?
Các  Tổ thường nói: “NHÂN ĐẤT TÉ, PHẢi  NHÂN ĐẤT MÀ ĐỨNG  DẬY”. Chính từ chỗ  mình mê đó, cũng chính là chỗ mình  quay trở về chứ  không đâu khác.  Kinh Lăng Nghiêm khi Ngài A Nan hỏi  Phật về nghĩa trói  và mở, thì  chẳng phải một đức Phật Thích Ca, mà mười  phương chư Phật  đồng phóng  quang đến thế giới này, đồng bảo Ngài A  Nan: “ÔNG MUỐN BIẾT  CỘi GỐC VÔ  MINH LÀ ĐẦU GÚT KHIẾN CHO ÔNG LUÂN HỒi  SANH TỬ, CHỈ LÀ SÁU  CĂN CỦA  ÔNG CHỨ KHÔNG VẬT GÌ KHÁC. ÔNG MUỐN BIẾT  TÁNH VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ,  KHIẾN  ÔNG MAU CHỨNG AN LẠC GIẢi THOÁT TỊCH TỊNH  DIỆU THƯỢNG, CŨNG LÀ SÁU  CĂN  CỦA ÔNG CHỨ KHÔNG VẬT GÌ KHÁC.” Nói đơn  giản, chính sáu căn là gốc   sanh tử luân hồi, cũng chính sáu căn là gốc  giải thoát Niết Bàn. Đây là   điểm rất quan trọng, chúng ta nghiệm xét  kỹ,sẽ thấy con đường giải  thoát  ngay trong mắt đây thôi, chứ không xa  lạ tận nơi nào như mình  thường  tưởng tượng. 
Chính lâu nay,  chúng ta từ nơi sáu căn  thấy nghe,  hiểu, biết chạy đuổi duyên theo sáu  trần mà dẫn mình đi  trong luân hồi,  tạo nghiệp không lường. Giờ đây,  cũng ngay sáu căn đó,  mình biết xoay  trở lại, không chạy theo sáu trần  nữa, tức là con  đường trở về chứ gì.  Bằng chứng là trong kinh Lăng  Nghiêm, khi Phật  bảo các vị Thánh thuật  lại chỗ chứng ngộ của mình để  Ngài Văn Thù chọn  căn viên thông, thì  trong hai mươi lăm vị Thánh thuật  lại đó, đều  không ngoài sáu căn, sáu  trần, sáu thức mà chứng viên  thông, trừ bảy  vị từ nơi bảy đại. Điều đó  cho thấy rõ là, NGAY NƠI SÁU  CỬA NÀY ĐỀU CÓ  ĐỦ CON ĐƯỜNG TRỞ VỀ để chứng  ngộ viên thông. Đó là trong  kinh, bước  qua trong nhà Thiền cũng không  thiếu gì trường hợp các  Thiền sư tỏ ngộ  từ nơi sáu căn.
1. Thiền sư Linh Hựu ở Qui Sơn. Khi còn ở với tổ Bá Trượng, một hôm Sư đứng hầu Bá Trượng, Bá Trượng hỏi: 
- Ai? 
Sư thưa: 
- Con Linh Hựu! 
Bá Trượng bảo:
- Ngươi vạch trong lò xem có lửa chăng? 
Sư vạch ra, thưa:
- Không lửa. 
Bá Trượng đứng dậy, đến vạch sâu trong lò được chút lửa, đưa lên chỉ Sư, bảo: 
- Ngươi bảo không, cái này là cái gì? 
Sư do đây phát ngộ, lễ tạ trình bày chỗ giải ngộ của mình. 
Ngay  khi tổ Bá Trượng cầm chút lửa đưa lên bảo ngài Linh Hựu: - Ngươi bảo  không , cái này là cái gì? Đó là Tổ MỞ CỬA CON MẮT đưa Sư vào. Và Sư  cũng thật lanh lợi chụp ngay cơ hội vào liền, không để lỡ mất.
2.    Thiền sư Hy Vận ở Hoàng Bá. Lúc Sư trụ trì chùa Đại An ở Hồng Châu.  Có   lần Sư tránh chúng đến chùa Khai Nguyên cũng ở Hồng Châu. Tướng  Quốc  Bùi  Hưu vào chùa thấy hình vẽ trên vách, hỏi thầy trụ trì: 
- Vẽ cái gì đây? 
Thầy trụ trì đáp:
- Vẽ hình cao Tăng. 
Bùi Hưu hỏi:
- Hình có thể thấy, cao Tăng ở đâu? 
Thầy trụ trì không thể đáp được. Bùi Hưu hỏi: 
- Trong đây có thiền nhơn chăng? 
Thầy trụ trì đáp: 
- Vừa có một vị tăng vào chùa đang làm việc, in tuồng thiền giả. 
Bùi Hưu bèn xin cho gặp. Thấy Sư, Bùi Hưu nói: 
- Hưu vừa có một câu hỏi, chư đức tiếc lời, giờ thỉnh thiền nhơn đáp thế một câu. 
Sư bảo: 
- Mời tướng công hỏi lại. 
Bùi Hưu lập lại câu hỏi trước. 
Sư dùng tiếng trong thanh gọi: 
- Bùi Hưu! 
Bùi Hưu: 
- Dạ! 
Sư bảo: 
- Ở chỗ nào? 
Bùi Hưu ngay nơi đó ngộ được ý chỉ, như được hạt châu trên búi tóc, bèn thỉnh Sư vào phủ kính thờ. 
Đây  là ngài Hoàng Bá MỞ CỬA LỖ TAI và Bùi Hưu cũng kịp thời thẳng vào, liền  thấy THẬT TƯỚNG CAO TĂNG hiện tiền. Thật sung sướng biết mấy!
3. Thái sử Hoàng Đình Kiên đến nương theo Hối Đường, Hối Đường bảo: 
-    Như Khổng Tử nói: “Này các trò! Cho ta là giấu giếm ư? Ta không có   giấu  giếm gì các trò cả,” Thái sử căn cứ vào đâu mà lý luận? 
Ông suy nghĩ để đáp. Hối Đường bảo: 
- Chẳng đúng! Chẳng đúng! 
Ông càng thêm mê muội. 
Một hôm, ông theo hầu Hối Đường đi dạo núi, bấy giờ hoa quế rụng đầy đất. Hối Đường mới hỏi: 
- Ông có ngửi thấy mùi thơm hoa quế chăng? 
- Ngửi thấy. 
Hối Đường bảo: 
- Ta không có giấu giếm gì ông cả. 
Ông chợt tỉnh, liền lễ bái thưa: 
- Hòa Thượng thật là tâm thiết tha của lão bà. 
Hối Đường cười nói: 
- Chỉ cần ông về đến nhà mà thôi. 
Trong  đây thì ngài Hối Đường MỞ CỬA LỖ MŨI đưa ông Hoàng Đình Kiên vào, và  ông cũng đúng lúc vào ngay, quên đi một thời lang thang làm khách phong  trần.
4. Thiền sư Huệ Hải ở Đại Châu. Lúc đầu Sư đến tham vấn Mã Tổ. Mã Tổ hỏi: 
- Từ đâu đến? 
Sư thưa: 
- Ở Việt Châu, chùa Đại Vân đến. 
- Đến đây cầu việc gì? 
- Đến cầu Phật pháp. 
- Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì? 
Sư lễ bái, thưa: 
- Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải? 
- Chính nay ngươi hỏi ta, là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài. 
Ngay câu này, Sư TỰ NHẬN BỔN TÂM KHÔNG DO HIỂU BIẾT, vui mừng lễ tạ. 
Ở  đây thì Mã Tổ MỞ CỬA CÁI LƯỠi đưa   ngài Huệ Hải vào. Ngài Huệ Hải cũng  không chút chần chờ nhảy vào  ngay,  liền tự nhận ra kho báu nhà mình xưa  nay vẫn đầy đủ, chưa từng  thiếu  thốn bao giờ, mà bấy lâu nay đành nhọc  nhằn làm kẻ cùng tử lang  thang!
5.   Thiền sư Văn Yển ở Vân Môn. Lúc  Sư đến Mục Châu tham vấn Trần Tôn  Túc.  Vừa thấy Sư đến, Tôn Túc liền  đóng cửa. Sư gõ cửa. Tôn Túc hỏi: 
- Ai? 
Sư thưa: 
- Con. 
Tôn Túc hỏi: 
- Làm gì? 
Sư thưa: 
- Việc mình chưa sáng xin thầy chỉ dạy. 
Tôn    Túc mở cửa trông thấy Sư liền đóng cửa lại. Như thế liên tiếp 3 ngày.    Ngày thứ 3, Tôn Túc mở cửa, Sư liền chen vào. Tôn Túc nắm đứng bảo: 
- Nói! Nói! 
Sư suy nghĩ. Tôn Túc liền xô ra, nói: 
- “Cây dùi đời Tần”. 
Rồi đóng sầm cửa lại, kẹt nát bàn chân Sư. Cái đau thấu xương ấy khiến Sư ngộ nhập. 
Đến    đây, trường hợp hơi đặc biệt. Ngài Trần Tôn Túc bạo dạn MỞ CỬA THÂN   cho  ngài Văn Yển vào, và ngài Văn Yển cũng khéo vào. Mới nhìn qua thấy   ngài  Trần Tôn Túc như tàn nhẫn, nhưng chính cái đau đó khiến ngài Văn   Yển  nhớ mãi không quên, CHUYỂN XÚC GIÁC thành CHÁNH GIÁC.
6. Thiền sư Kỉnh Huyền ở Đại Dương. Lúc Sư đi du phương, trước đến Lương Sơn chỗ Thiền sư Duyên Quán. 
Sư hỏi: 
- Thế nào là đạo tràng vô tướng? 
Lương Sơn chỉ BồTát Quán Âm nói: 
- Cái này là do Ngô Xử Sĩ vẽ. 
Sư suy nghĩ để tiến ngữ, Lương Sơn nhanh nhẩu nói: 
- Cái này có tướng, cái kia không tướng. 
Sư nhân đó tỉnh ngộ, liền lễ bái. 
Chỗ    này hơi khó thấy. Thiền sư Duyên Quán khéo MỞ CỬA Ý đưa ngài Kỉnh   Huyền  vào đạo tràng vô tướng. Ngài Kỉnh Huyền cũng nhanh như chớp thẳng   vào,  nếu chậm một chút, đã THEO CÁI SUY NGHĨ đi xa mấy ngàn dặm rồi. 
Như    vậy, để thấy rõ rằng, ngay trên đường mê chính là đường giác, lối về   là  đây. Như lời dẫn trong mục “THẤY TRÂU” của Tranh Chăn Trâu đã nói: “Từ    tiếng được vào chỗ thấy liền đúng. Cửa sáu căn rành rõ không sai,   trong  động dụng rành rành hiển lộ. Chất muối trong nước, sắc xanh trong   keo.  Vén chân mày lên chẳng phải vật khác”. 
Khi mê thì cũng   “THẤY NGHE”  này mà mờ tối. Lúc giác cũng “THẤY NGHE” này mà sáng ngời.   Tức là con  trâu tâm luôn hiển lộ rõ ràng nơi cửa sáu căn và trong mọi   động dụng  hàng ngày không chút gì nghi ngờ. Hay nói ngược lại, muốn  gặp  CON TRÂU  TÂM, phải ngay cửa sáu căn và trong mọi cử chỉ, hành động  đó,  khéo nhận  ra thôi, chứ không đâu khác. Như ngài Sùng Tín hầu  thiền sư  Đạo Ngộ một  thời gian lâu. Một hôm, Sư thưa: 
- Từ ngày con vào đây đến giờ, chưa được thầy chỉ dạy tâm yếu. 
Đạo Ngộ bảo: 
- Từ ngày ngươi vào đây, ta chưa từng chẳng chỉ dạy ngươi tâm yếu. 
- Chỉ dạy ở chỗ nào? 
-    Ngươi dâng trà lên, ta vì ngươi mà tiếp. Ngươi bưng cơm đến, ta vì    ngươi mà nhận. Ngươi xá lui thì ta gật đầu. Chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm    yếu? 
Sư cúi đầu lặng thinh giây lâu. Đạo Ngộ bảo: 
- Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai. 
Ngay câu nói đó Sư liền ngộ. 
Quả    thật, chính ngay chỗ động dụng hàng ngày,bưng cơm, dâng trà, xá chào …    luôn luôn hiển lộ ánh sáng chân thật không một phút giây nào thiếu   sót,  vậy mà chúng ta có bao giờ NHỚ BIẾT đâu! 
Bởi vậy, chư Tổ   thường bảo  là “THẬT SỰ ĐÁNG THƯƠNG THAY!”. Cũng như trong nước biển vốn   có chất  muối, nếu người biết, liền dẫn nước biển vào ruộng để cho bốc   hơi, tức  có muối dùng. Chúng ta nhận biết rõ ngay cửa sáu căn vốn có   “THỂ CHÂN  THẬT” hằng hiển lộ, khéo dùng phương tiện tiến tu, thường  soi  trở lại  không chạy theo sáu trần, thì sẽ sống được với thể chân  thật,  có đủ diệu  dụng vượt thoát sanh tử, làm chủ muôn pháp tự tại.  Đây là  một sự thật  trăm phần trăm, chỉ cần chúng ta VÉN CHÂN MÀY LÊN,  MỞ MẮT  RA, thì nó “RÕ  RÀNG SÁNG RỠ”, KHÔNG PHẢi VẬT GÌ KHÁC ĐÁNG NGHI  NGỜ! 
Cho  nên, lâu  nay chúng ta cứ than là đã bị trầm luân từ vô  thủy, hết kiếp  này đến  kiếp khác lăn lộn mãi trong đường luân hồi,  không biết đâu là  lối ra.  Thì đây, LỐi RA ĐÃ MỞ, ĐƯỜNG VỀ ĐÃ HIỆN,chỉ  còn đợi chúng ta có  CẤT BƯỚC  ĐI hay không thôi. Đi, thì ngay chỗ “THẤY  NGHE” đó, liền trở  về. Lừng  chừng, thì cũng ngay chỗ “THẤY NGHE” đó,  liền bị trôi giạt.  Chân lý quả  thật sáng ngời trước mắt, quá gần gũi  với chúng ta vô cùng,  chớ không  phải ở xa tận phương trời đâu đâu, qua  mấy muôn ngàn thế  giới khiến  chúng ta không bao giờ dám nghĩ tới. Chỉ  một điều, VỪA ĐỘNG  NIỆM tức  thân ở tại QUÊ NGƯỜI. VÔ NIỆM thì ngồi  tại QUÊ NHÀ cười ngất!  Đường trở  về là đấy!
Các bài mới
- Cửa giác ngộ vẫn còn đang mở - 15/03/2016
- Cái biết sáng ngời muôn thưở - 14/03/2016
- Ta là gì ? - 26/02/2016
- Thiền tông đốn ngộ - 16/11/2015
- Tâm yếu nhà Thiền - 16/11/2015
Các bài đã đăng
- Niệm về cái chết - 15/11/2015
- Sống tỉnh giác - 15/10/2015
- Tam nhân Phật tánh - 23/09/2015
- Tâm Kinh Bát Nhã qua cái nhìn của nhà thiền - 23/09/2015
- Giải trừ bản ngã - 23/06/2015
Pháp Thoại
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 36908
- Online: 44
 
                
 
                              
                              
                              
                              
                              
                              
                              
                              
                              
                              
             
             
             
             
            