Bổ Túc Đề Tài Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ XX
30/10/2025 | Lượt xem: 10
HT.Thích Thanh Từ
I- Đường lối tu của Thiền viện
Gần đây có một nghi vấn lớn được đặt ra: Thiền ở Trung Hoa có năm phái như: Lâm Tế, Tào Động, Quy Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn; ở Việt Nam có bốn phái là Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, Trúc Lâm. Vậy hiện tại chúng ta tu theo Thiền tông, y cứ vào pháp nào, tông nào để tu?
Nghi vấn này hôm nay tôi giải đáp một cách rõ ràng cho quý vị rõ. Chúng ta không y cứ theo năm phái thiền ở Trung Hoa, cũng không y cứ theo những phái thiền Việt Nam: Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Thảo Đường, Vô Ngôn Thông. Mà tôi y cứ vào ba vị tổ: Huệ Khả, Lục tổ Huệ Năng, Trúc Lâm Đầu-đà làm chỗ tựa để vạch ra lối tu cho Thiền viện chúng ta.
Tổ thứ nhất là Huệ Khả. Điều này từ lâu quý vị đã biết, ngài là vị tổ thứ hai của thiền tông Trung Hoa và là vị tổ đầu tiên người Trung Hoa. Câu chuyện tổ Bồ-đề-đạt-ma và tổ Huệ Khả tôi đã kể nhiều lần. Câu chuyện quan trọng ở chỗ: Thần Quang đang băn khoăn thao thức cầu xin tổ Đạt-ma dạy cho pháp tu:
- Bạch Hòa thượng! Tâm con chưa an, xin Hòa thượng dạy con “pháp an tâm”.
Tổ Đạt-ma nhìn thẳng bảo:
- Đem tâm ra đây, ta an cho.
Thần Quang sửng sốt, quay lại tìm tâm không thấy, thưa:
- Con tìm tâm không thể được.
- Ta đã an tâm cho ngươi rồi.
Thần Quang nhân đây được khế hội, liền biết đường vào và được đổi tên là Huệ Khả. Ngài Huệ Khả biết đường vào là ngài ngộ đạo hay biết hướng tu? Chỗ này là chỗ mà chúng ta phải lưu ý. Ngài Huệ Khả đang băn khoăn về đường lối tu hành của mình, tức là phương pháp tu để cho tâm được an. Khi được Tổ chỉ dạy thì ngài nhận ra cách làm cho tâm an, ngài nhận ra cách làm cho tâm an không có nghĩa là ngài đã ngộ đạo. Tôi nêu lên dữ kiện này để cho quý vị thấy ngài Huệ Khả “biết đường vào”, chưa phải kẻ “đến nhà”, nên còn phải trải qua thời gian lâu để tu, sau mới đốn ngộ. Ngài trình với tổ Bồ-đề-đạt-ma rằng:
- Con đã bặt hết các duyên.
Tổ Đạt-ma bảo:
- Coi chừng rơi vào không.
Huệ Khả thưa:
- Rõ ràng thường biết làm sao không được!
Tổ Đạt-ma hỏi:
- Tại sao không rơi vào không?
Huệ Khả thưa:
- Rõ ràng thường biết, nói không thể đến.
Khi đó tổ Đạt-ma mới nói:
- Đây là chỗ Phật tổ trao truyền. Ông như thế, ta cũng như thế.
Đó là Tổ ấn chứng ngài đã đại ngộ. Chúng ta thấy ngài Huệ Khả đại ngộ sau khi biết đường vào, chứ không phải khi được Tổ bảo đem tâm ra ta an cho ngay đó mà ngài đại ngộ. Lúc ấy ngài chỉ thấy được đường vào, tức là ngài đã biết cách làm cho tâm an định. Cách an tâm của tổ Huệ Khả rất hệ trọng đối với chúng ta bây giờ. Vì hiện tại đa số người tu chúng ta chưa đốn ngộ, mà đang còn tiệm tu, như vậy chúng ta phải làm sao? Nương vào đâu để tiến? Tôi thấy pháp tiệm tu của tổ Huệ Khả rất thích hợp với chúng ta bây giờ, nên tôi căn cứ vào đây để hướng dẫn tăng ni tu. Tôi lập lại chỗ này cho quý vị thấy rõ pháp tu.
Xưa ngài Thần Quang tìm tâm, ngài dùng cái gì để tìm? Dĩ nhiên là dùng trí chiếu soi lại mình. Vì vọng tưởng khởi từ tâm mình, chứ không khởi từ chỗ nào khác. Dùng trí chiếu soi lại mình gọi là Phản quan tự kỷ. Hiện tại chúng ta nhìn vọng tưởng, dùng cái gì để nhìn? Dĩ nhiên cũng dùng trí tuệ để nhìn. Vậy, pháp tu của chúng ta, tôi y cứ nơi tổ Huệ Khả là vị tổ Trung Hoa đầu tiên, được truyền dạy từ tổ Bồ-đề-đạt-ma ở Ấn Độ sang. Đây là cội nguồn phát xuất ra thiền tông Trung Hoa. Lối tu của ngài thong thả từ chỗ chưa ngộ, tiến đến chỗ ngộ. Vì vậy mà nói tiệm tu, và khi ngộ thì triệt ngộ. Đó là chỗ y cứ thứ nhất.
Chỗ y cứ thứ hai là Lục tổ Huệ Năng. Lục tổ Huệ Năng tu và hướng dẫn người sau tu như thế nào? Đây là điều mà chúng ta cần phải biết. Sau việc trình kệ thì cư sĩ họ Lư được Ngũ Tổ gọi lên phương trượng, giảng kinh Kim Cang đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, ngài liền đại ngộ thấy tất cả pháp chẳng lìa tự tánh, mới thưa với Ngũ Tổ rằng:
Đâu ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh,
Đâu ngờ tánh mình vốn không sanh diệt,
Đâu ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tánh mình vốn không dao động,
Đâu ngờ tánh mình hay sanh muôn pháp…
Trong kinh Kim Cang có đoạn ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật: Người phát tâm cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác làm sao hàng phục tâm và an trụ tâm? Phật dạy: Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Sau này người ta chỉ nhớ Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm mà không nhớ Bất ưng trụ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Nếu không có đoạn này chúng ta không biết không trụ cái gì? Phật dạy chúng ta không nên trụ sáu trần sắc thanh hương vị xúc pháp thì ngộ được tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Hàng ngày chúng ta quen để sáu căn duyên theo sáu trần, rồi phân biệt tốt xấu hay dở, cho cái biết đó là tâm mình. Bây giờ sáu căn không duyên theo sáu trần mà vẫn thấy biết. Cái thấy biết đang hiện hữu chính là tâm thể chân thật của chúng ta.
Cư sĩ họ Lư khi nghe Ngũ Tổ giảng kinh: “Không trụ ở sắc thanh hương vị xúc pháp thì sanh tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác”, ngay đây ngài thấy rõ ràng là khi sáu căn không dính với sáu trần thì tâm thể thanh tịnh sáng suốt hiện hữu. Đó là chỗ ngộ của ngài. Song khi phương tiện dạy người sau trong kinh Pháp Bảo Đàn, ngài có nêu lên ba pháp vô:
Vô trụ vi bổn, vô tướng vi thể, vô niệm vi tông.
Vô trụ vi bổn: là không kẹt không dính mắc làm gốc. Rõ ràng ngài nêu lên chỗ ngộ của ngài là sáu căn không dính với sáu trần thì nhận ra tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì vậy chủ yếu của sự tu hành là phải lấy vô trụ làm gốc.
Vô tướng vi thể: là lấy không tướng làm thể. Ngài căn cứ vào đâu mà dạy như thế? Chúng ta đâu quên bốn câu kệ mà ngài trình với Ngũ Tổ, trong đó có câu: “Bản lai vô nhất vật.” Phàm vật thì có hình tướng, không vật thì không có hình tướng. Tại sao nói Không có một vật? Vì tâm thể hoàn toàn không có tướng mạo. Phàm vật có tướng mạo là bại hoại, là vô thường, là duyên hợp hư dối. Tâm thể của mỗi người xưa nay không có một vật nên không có tướng, do không có tướng nên không sanh không diệt, vì vậy mà nói Vô tướng vi thể.
Vô niệm vi tông: là lấy vô niệm làm chủ; chủ yếu của người tu là phải đến chỗ vô niệm. Thông thường chúng ta khởi niệm là duyên theo sáu trần, dính kẹt với sáu trần. Không bao giờ khởi niệm mà không có sáu trần; không có năm trần trước thì cũng có pháp trần. Thậm chí chúng ta ngưng hoạt động, xếp chân ngồi yên, mà vẫn có pháp trần hiện hành, ý thức duyên theo. Vì vậy đối với sáu trần, khởi vọng niệm duyên theo là còn dính mắc, mà còn dính mắc là còn nghiệp, còn nghiệp là còn luân hồi sanh tử. Thế nên lấy vô niệm làm tông chủ. Chủ yếu của giải thoát phải vô niệm.
Xưa Lục Tổ dạy vô trụ vi bổn, vô tướng vi thể, vô niệm vi tông, bây giờ tôi đổi lại vô niệm ở trước, vô tướng ở sau. Tại sao tôi đổi như vậy? Vì đứng về mặt tu thì phải lắng dừng vọng niệm trước, còn thể thì khi hết vọng niệm mới hiển hiện tròn sáng, đó là cái quả. Vì vậy mà tôi đổi “vô niệm vi bổn” trước rồi tới “vô tướng vi thể”, sau cùng là “vô trụ vi tông”. Đó là chỗ ngộ của Lục tổ Huệ Năng đem ra ứng dụng giáo hóa ngài cho là gốc mà tôi đã trình bày. Vô tướng vi thể tôi thấy thật tuyệt vời, vì trong hướng dạy của ngài có đường lối liên hệ rõ ràng. Ví dụ như ngài thấy Bản lai vô nhất vật, thì khi thiền sư Hoài Nhượng đến, ngài hỏi:
- Ông từ đâu đến?
- Ở Tung Sơn đến.
- Mang vật gì đến?
- Nói in tuồng một vật tức không trúng.
Nếu nói là một vật thì có hình tướng, phàm cái gì có hình tướng thì hoại diệt vô thường. Cái thể rỗng lặng sáng suốt có sẵn ở mỗi người không hình không tướng, nói nó là một vật thì không đúng. Lục Tổ hỏi tiếp:
- Lại có tu chứng chăng?
- Tu chứng chẳng phải không, nhiễm ô không thể được.
Tuy bản thể thanh tịnh sáng suốt có sẵn ở mỗi người, nhưng vì vô minh vọng tưởng che khuất, nên phải có tu để dẹp hết vô minh vọng tưởng, thì bản thể mới hiển hiện, nên nói tu chứng chẳng phải không. Và vì bản thể không hình tướng, thì không có cái gì làm cho nó dơ được, nên nói nhiễm ô không thể được. Chúng ta thấy thầy trò có mối quan hệ nhau qua sự chỉ dạy rõ ràng, đâu phải chuyện ngẫu nhiên.
Thiền sư Minh Chánh có làm bài kệ nói lên ý nghĩa này, tôi dẫn bốn câu sau đây cho quý vị thấy chí lý vô cùng.
Công danh cái thế màn sương sớm,
Phú quý kinh nhân giấc mộng dài.
Chẳng biết bản lai vô nhất vật,
Công phu luống uổng một đời ai.
Người công danh tột đỉnh không ai sánh kịp, có đó rồi mất đó, giống như màn sương sớm, sáng thấy mờ mờ chốc lát tan đi. Giàu sang cho đến người nghe nói giật mình hoảng sợ, cũng như giấc mộng dài thôi. Nếu không thấy được bản thể xưa nay không một vật thì công phu khó nhọc chỉ luống uổng một đời thôi. Công phu đây có hai mặt: Mặt đời thì người chịu khó nhọc gầy dựng nên tài sản sự nghiệp ở thế gian, rốt cuộc rồi bị vô thường phá hoại tiêu tan, uổng đi một đời. Mặt đạo, người tu hành chỉ căn cứ trên tướng, trên hình thức mà không thâm nhập được bản thể chân thật sáng suốt của mình (bản lai vô nhất vật), thì công phu đó uổng cả một đời tu hành. Như vậy, tu mà không ngộ đạo, không nhận ra bản tánh bất sanh bất diệt của mình thì sự tu hành không tới đâu hết. Vì vẫn còn ở trong vô thường sanh tử, chỉ hơn là đi đường thiện, những chúng sanh khác thì đi đường ác. Thấy được bản lai vô nhất vật mới là chỗ cứu cánh giải thoát. Đây là chỗ hệ trọng, vì vậy mà chúng ta tu là phải nhận cho ra bản thể ấy. Đó là chỗ y cứ thứ hai.
Chỗ y cứ thứ ba là tổ Trúc Lâm Đầu-đà. Là người Việt Nam tu thiền, mà không có sắc thái Việt Nam thì chưa phải là Thiền tông Việt Nam. Vì vậy mà Thiền tông Việt Nam có khuynh hướng đi theo các vị tổ Việt Nam. Ở Việt Nam vào đời Hậu Lê, Nguyễn có các phái thiền Lâm Tế, Tào Động được truyền sang, những phái thiền này còn khuôn mẫu của người Trung Hoa, nên tôi y cứ tổ Trúc Lâm, người khai sáng ra phái thiền Việt Nam là Trúc Lâm Yên Tử. Trong sử không có ghi rõ ngài tu theo pháp môn gì và cơ duyên ngộ đạo ra sao. Nhưng, chúng ta thấy lúc nhỏ ngài đã được Tuệ Trung thượng sĩ giáo dục, dĩ nhiên là ngài đã nhận ra đạo lý, nên khi lên ngôi vua, tuy ở địa vị ông hoàng, mà ngài vẫn mang tâm trạng của một người tu. Đến khi truyền ngôi vua cho con, đi tu, trong thời gian tu ngài có làm nhiều bài kệ, qua những bài kệ của ngài chúng ta thấy ngài chịu ảnh hưởng lối tu Thoại đầu. Chẳng hạn như bài Cư Trần Lạc Đạo tôi trích đoạn đầu:
Miễn được lòng rồi,
Chẳng còn phép khác.
Gìn tánh sáng, tánh mới hầu an;
Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác.
Miễn được lòng rồi, chẳng còn phép khác. Chữ lòng ở đây là tâm. Người tu thiền nhận được bản tâm mình rồi, là đã thực hiện được nền tảng cơ bản, không còn có một pháp nào khác hơn nữa. Câu này chứng tỏ ngài đã ngộ được tâm. Gìn tánh sáng tánh mới hầu an. Khi ngộ được bản tâm rồi, phải sống với ánh sáng trí tuệ của tâm thì mới an. Ngài nói khi đã ngộ được bản tâm rồi phải gìn giữ bảo nhậm đừng để cho nó mất. Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác. Những ý niệm vọng tưởng, không cho dẫn khởi thì niệm tưởng dần dần hết không lầm. Qua những câu phú trên, chúng ta thấy ngài không tu theo Thoại đầu, rõ ràng ngài nhận nơi mình có bản tâm, rồi sống với ánh sáng của bản tâm đó, nếu có vọng tưởng khởi, ngài ném nó nên được an lạc.
Đó là bốn câu trong bài Cư Trần Lạc Đạo, tôi dẫn cho quý vị thấy đường lối tu của ngài đã ứng dụng. Và sau đây là bài Hữu Cú Vô Cú. Nói lên tinh thần không kẹt dính hai bên của ngài, mà tôi tâm đắc ở bốn câu:
Câu có câu không,
Hồi hỗ hay không,
Nón tuyết giày hoa,
Ôm cây đợi thỏ.
Người thấy hai bên hoặc có hoặc không, hoặc phải hoặc quấy… Tất cả những cái đối đãi đó do hỗ tương nhau mà lập thành. Hồi hỗ là hai pháp hỗ tương nhau, pháp này nương pháp kia, pháp kia nương pháp này mà có.
Ví dụ “sáng” là từ “tối” mà lập, “có” là từ “không” mà lập. Nếu không có tối thì không lập ra sáng, hoặc không có cái có thì không lập ra cái không… Pháp có và không do hỗ tương nhau mà thành, nếu chấp nó là thật thì không đúng. Tại sao? Vì các pháp đối đãi nương nhau mà lập thì không thật nên ở đây ngài mới dùng hình ảnh nón tuyết giày hoa. Nón bằng tuyết đội trên đầu được bao lâu? Giày bằng hoa chân mang được bao lâu? Nón tuyết giày hoa nói lên tướng đối đãi tạm bợ, có trong chốc lát rồi tan hoại. Phàm pháp tương đối thì giả dối tạm bợ không lâu dài. Nếu người chấp nó là thật là lâu dài thì giống như kẻ ôm cây đợi thỏ. Ngàn năm một thuở, thỏ mới chạy đụng nhằm gốc cây chết. Chỉ có kẻ ngu mới tới ôm gốc cây chờ nhặt xác thỏ chết. Ở đây chúng ta có ai ngu như thế không?!
Vậy, chỗ mà ngài thấy, có liên hệ gì với người xưa không? Tổ tăng Xán kết thúc bài Tín Tâm Minh qua cái thấy không hai:
Tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm.
Tin tâm thì không có hai, không có hai mới là tin tâm. Như vậy, nếu còn thấy hai là thật thì chưa tin tâm. Lục tổ Huệ Năng ngài di chúc cho đệ tử, nên dùng ba mươi sáu pháp đối nhau để trả lời khi có người hỏi. Nếu hỏi “có” lấy “không” đáp, hỏi “sáng” lấy “tối” đáp… Vì tất cả cái đối đãi không có định nghĩa thật, do có cái này nên có cái kia, do có cái kia nên có cái này, không có pháp nào cố định cả. Chúng ta định nghĩa nó để thành cố định là không đúng. Nên Tổ không cho chúng ta định nghĩa. Như vậy, cái gì còn đối đãi là cái đó không thật.
Nếu người đã tin được tâm mình thì không còn thấy, còn kẹt trong đối đãi nữa. Đó là chỗ mà tôi y cứ vạch ra hướng tu.
Sau đây là bốn câu kết của bài phú Cư Trần Lạc Đạo, chứng tỏ ngài Trúc Lâm Đầu-đà đã ngộ đạo không nghi ngờ:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên, cơ tắc xan hề khốn tắc miên. Ngài nói ở ngay trong cảnh đời bụi bặm trần lao này tùy duyên, đói thì ăn, mệt thì ngủ. Đạo đây là chỉ tánh giác hay tâm thể có sẵn nơi mỗi người. Tức là nhận ra tánh giác của mình rồi thì ở ngay trong cõi trần lao này tùy duyên, đói thì ăn, khát thì uống, mệt thì ngủ, lạnh thì mặc áo ấm, nóng thì mặc áo mỏng… Vì đó là nhu cầu cần thiết cho sự sống của con người, tùy theo nhu cầu mà xử sự, không có tâm tìm kiếm đòi hỏi. Đói ăn cơm hẩm cũng vui, ăn gạo thơm cũng vui, khát uống nước lã cũng được, uống nước trà cũng xong, không kén chọn đòi hỏi. Đó là tùy duyên, chứ đừng hiểu đói ăn mệt ngủ rồi cứ tìm cầu cao lương mỹ vị, ăn uống cho sung sướng khi đã no đủ thì tìm chỗ êm mát ngủ cho thỏa mãn, thức dậy thì rong chơi không làm gì hết! Như vậy là bệnh.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch, đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền. Trong nhà mình có của báu, đừng đi tìm kiếm ở đâu, hàng ngày đối duyên xúc cảnh tâm không chạy theo không dính mắc, chớ hỏi thiền. Như vậy, ngài đã thấy rõ nơi ngài có cái thể chân thật, nên ngay trong cõi đời này mà vui với nó, rồi tùy thời đói ăn mệt ngủ, không tìm kiếm ở đâu xa, đối duyên xúc cảnh không dính không mắc, đó là thiền. Thiền ở đây không phải là cái gì mầu nhiệm lạ kỳ như: hào quang chiếu sáng rực rỡ, hoặc bay lên hư không hay lặn xuống đáy biển… mà thiền là lẽ sống rất thật tế, hàng ngày vẫn sinh hoạt bình thường sống an nhiên trước mọi hoàn cảnh, không khởi tâm tham sân chạy theo cảnh như kẻ phàm phu. Chúng ta thấy đường lối tu của tổ Trúc Lâm Đầu-đà bao hàm cả pháp tu của hai vị tổ Huệ Khả và Huệ Năng. Đó là chỗ y cứ thứ ba.
Như vậy, từ đường lối tu của ba vị tổ: Huệ Khả, Huệ Năng, Trúc Lâm, tôi dung hợp thành ra đường lối tu của Thiền viện chúng ta. Chỗ này quý vị đọc kỹ trong sách sẽ thấy rõ. Ở đây tôi chỉ nói phần cô đọng. Đường lối tu mà tôi dung hợp của ba vị tổ trên, tôi chia ra làm bốn:
1- Biết vọng không theo.
2- Đối cảnh không tâm.
3- Không kẹt hai bên.
4- Hằng sống với cái thật không theo cái giả.
Đó là bốn điều cô đọng thành ra đường lối tu của chúng ta, nó rất thiết yếu đối với trình độ của chúng ta hiện tại. Từ ngày thành lập tu viện Chơn Không tới bây giờ, tuy đường lối tu của chúng ta có là Biết vọng không theo, và quý vị đang ứng dụng tu. Phần quý vị khi ứng dụng tu, có người thì tiến suôn sẻ, có người thì bị trục trặc. Phần tôi thì không có thời giờ rà soát lại coi có chỗ nào cần phải bổ túc thêm không. Gần đây tôi được cái duyên làm người thiểu sự, nhờ có thời giờ rảnh nên tôi rà soát lại, thấy có những điểm cần phải chỉ rõ cho quý vị để ứng dụng tu không bị sai, không bị chướng, để có kết quả tốt.
1- Biết vọng không theo
Trước kia tôi chỉ nói khi nhìn lại mình thấy niệm khởi thì biết nó là vọng tưởng, không theo. Tôi chỉ nói lý do: tâm niệm là hư ảo. Chưa nói phải tu bằng cách nào, y cứ vào chỗ nào mà nhìn. Nên có người thì y cứ trên trán mà nhìn, có người y cứ trên đỉnh đầu mà nhìn… Vì vậy lâu lâu có người than đau đầu, có người than thở không thông, tu bị trục trặc. Lại có nhiều người nói ở ngoài vừa làm việc vừa tu thì thấy vọng tưởng ít, khi ngồi lại tu thấy vọng tưởng liên miên, nhiều hơn lúc làm việc. Đây tôi nhắc lại chủ trương tu thiền, nhất là Thiền tông. Tu không phải chỉ trong giờ ngồi thiền, mà tu trong mọi hoạt động, tức là hành động nào cũng phải tu, không đợi ngồi thiền mới tu. Nhớ như vậy, nếu chỉ tu trong giờ ngồi thiền thì thật là thiệt thòi. Vì một ngày một đêm hai mươi bốn giờ, buổi tối và khuya ngồi thiền chỉ có ba giờ thì những giờ còn lại không tu sao?
Vậy, tu trong mọi hành động thì phải tu như thế nào? Và trong khi ngồi thiền thì cái gì hoạt động? Chúng ta dạy tu phải có một đường hướng trước sau nhất quán, chứ không được dạy trước thế này sau thế kia không có sự liên hệ, như thế là tai hại. Các vị có trách nhiệm ở các Thiền viện có biết tôi dạy cho người mới xuất gia và cư sĩ tu bằng cách nào không? Hôm nay tôi trình bày thật rõ để quý vị có trách nhiệm làm thầy nghe, rồi hướng dẫn đệ tử tu cho đúng. Người mới xuất gia họ chưa biết gì hết, vào Thiền viện, đương nhiên là phải dạy tu thiền. Nhưng dạy thẳng Biết vọng không theo thì họ thực hành không được, nên tôi dạy quán sổ tức. Sổ là đếm, tức là hơi thở. Sổ tức quán là quán sát hơi thở ra vô, đếm một, hai… mười. Sổ tức quán có hai cách: nhặt và khoan. Nhặt là hít vô cùng đếm một, thở ra sạch đếm hai, tức là hơi thở vô đếm một, hơi thở ra đếm hai. Khoan là hít vô cùng thở ra sạch đếm một, tức là hơi vô hơi ra đếm một, đếm tới mười, bỏ. Tôi bắt phải làm hai việc: việc thứ nhất là biết hơi thở ra vô đi từ đâu tới đâu, việc thứ hai là nhớ số từ một tới mười. Như vậy là làm hai việc một lượt, vừa biết hơi thở ra vô vừa nhớ số. Tôi chưa bao giờ dạy đếm ngược hoặc đếm xuôi, vì đếm như thế là rắc rối. Có nhiều người: “Tại loạn quá nên phải dạy đếm ngược xuôi như thế để đừng nghĩ bậy.” Nhưng nếu tu như thế làm sao tiến lên bước thứ hai được? Nên tôi chỉ dạy biết hơi thở vô cùng đếm một, biết hơi thở ra sạch đếm hai. Khi đã bớt loạn không lộn không quên, tôi bảo bỏ đếm số, chỉ biết hơi thở ra vô, hít hơi vô tới đâu biết rõ, thở hơi ra tới đâu biết rõ. Như vậy, trước làm hai việc một lượt, bây giờ bớt đi một việc còn một việc. Nếu đếm ngược đếm xuôi khi bỏ đếm theo hơi thở thì lúng túng. Đó là dạy tu không nhất quán. Vì vậy, lúc đầu loạn nhiều nên dạy họ vừa biết vừa đếm hơi thở. Khi bớt loạn thì bớt một việc làm một việc. Tới chừng Biết hơi thở thuần thục rồi thì dạy Biết vọng không theo.
Tôi thấy lối dạy Biết vọng không theo lâu nay có chút sơ sót là chỉ nói “Biết vọng không theo”, mà không nói làm cách nào để biết vọng tưởng. Có trụ chỗ nào, có nương ở đâu không? Nên mỗi người làm mỗi cách thành ra sanh bệnh sanh chướng. Lỗi đó lẽ ra không có, mà lại xảy ra, là do không có rà soát lại kỹ. Bây giờ nếu ai đã khéo nhìn thấy vọng tưởng không theo mà không bị đau đầu, không bị nghẹt thở, không bị chướng ngại thì cứ tiếp tục thực hành; còn nếu ai bị chướng thì nên sử dụng như thế này: vẫn tiếp tục mượn hơi thở để tu, vẫn biết rõ hơi thở ra vô, không đè, không kìm, không trụ. Cấm kỵ ba điều này, vì đè, kìm, trụ, kẹt cái nào cũng là bệnh.
Đa số người ngồi thiền hay vấp phải cái lỗi đè, đè vọng tưởng đừng dấy khởi. Vọng tưởng ở đâu mà đè? Đè thì nặng nề không đúng. Lại có người ngồi thiền kìm giữ cứng sững, không cho vọng tưởng dấy khởi cũng là bệnh. Có người trụ chót mũi, có người trụ trên trán, trụ chỗ này trụ chỗ nọ đều là bệnh. Như vậy chúng ta phải làm sao? Chúng ta nương mũi để biết hơi thở ra vô. Nghĩa là hơi thở ra biết hơi thở ra, hơi thở vô biết hơi thở vô. Khi biết hơi thở ra hơi thở vô, ở bụng có động theo hơi thở phình lên xộp xuống nhè nhẹ, cũng biết rõ, chứ không phải không biết. Nhớ là nương nơi mũi để biết hơi thở ra hơi thở vô, không phải trụ nơi mũi. Nương là gá tạm, còn trụ là chấp cứng một chỗ. Nương mũi biết hơi thở ra hơi thở vô rõ ràng, khi nào có vọng tưởng khởi lên biết nó là vọng tưởng, nó tan mất, tâm yên lặng.
Đó là lối tu ứng dụng có hiệu nghiệm, để cho người tu dễ dàng khi dụng công. Chúng ta thực hành như thế không bệnh. Tu là tu trong mọi hoạt động. Khi ngồi thiền, toàn thân từ đầu, mình, tay chân đều yên không động, chỉ có hơi thở ra vô là động thì chúng ta nương hơi thở ra vô, khi vọng tưởng khởi biết nó là vọng tưởng, vọng tưởng liền tan. Vừa biết hơi thở ra vô vừa biết vọng tưởng khởi, vậy có phải có hai “cái biết” không? Ví dụ mục đồng cho trâu ra đồng ăn cỏ, tay nắm sợi dây giàm, khi trâu ngoái cổ qua bên này bên kia ăn lúa mạ, thì chú mục đồng kéo lại. Vậy nắm dây giàm và kéo dây giàm là một tay hay hai tay? Thấy có hai động tác, nhưng chỉ một cái tay thôi. Cũng vậy, biết rõ hơi thở ra hơi thở vô và biết vọng tưởng khởi, thấy dường như có hai việc khác nhau, nhưng cái biết không hai.
Có người cho rằng hơi thở ra hơi thở vô là động, mình thấy biết cái động mình cũng động theo. Đó là điều lầm lẫn. Tại sao? Vì chúng ta nhìn thấy người khác chạy, chúng ta đâu có chạy. Hơi thở ra hơi thở vô là động chứ “cái biết” đâu có động. Quý vị mới thấy cái nhất quán của pháp tu. Từ khi đếm hơi thở là đã có “cái biết” theo dõi hơi thở ra vô rồi, tới khi bỏ đếm thì còn “cái biết” theo dõi hơi thở ra vô. Bây giờ dừng không theo hơi thở nữa, mà tạm nương nơi chót mũi để biết hơi thở ra vô và khi nào vọng tưởng khởi, biết nó là vọng tưởng, không theo. Như vậy, quý vị thấy trên hơi thở chúng ta đi tuần tự: theo hơi thở từ khi mới hít vô cho tới cùng và từ khi bắt đầu thở ra cho đến sạch, rồi đếm. Kế đó là bỏ đếm, theo hơi thở. Tới đây chúng ta chỉ còn biết (mượn) hơi thở để an tâm. Vậy, biết (mượn) hơi thở có lỗi gì trong lối tu thiền không? Có chỗ nào trái với Thiền tông không? Không trái. Vì thiền là tu trong mọi hoạt động, khi ngồi thiền hơi thở là cái động, nên tu trên hơi thở. Chúng ta biết rõ hơi thở ra vô, vọng tưởng không khởi, là bặt hết các duyên. Các duyên bặt hết thì còn cái gì? Còn cái thường biết rõ ràng, chỗ mà ngài Huệ Khả trình với tổ Bồ-đề-đạt-ma đó. Tu như vậy, chúng ta tránh được cái lỗi vô ký và cái lỗi rơi vào không mà Lục Tổ thường nhắc.
Chúng ta thường biết rõ ràng, đi biết đi, đứng biết đứng, nằm biết nằm, ngồi biết ngồi, làm biết làm, nghỉ biết nghỉ, ăn biết ăn… Nương nơi động tác để tu, vọng tưởng vừa khởi liền biết, vọng tưởng tan… Như vậy, không có hành động nào mà không tu, tu trong bốn oai nghi, bốn oai nghi đều là thiền. Tu như vậy, chẳng những bản thân mình được lợi ích, mà cả xã hội quốc gia cũng được ảnh hưởng tốt. Chẳng hạn như người lái xe, tâm không loạn động, ngồi mắt nhìn tới trước, tay chân hoạt động đúng công tác lái xe, nếu có việc gì xảy ra, liền thấy biết đáp ứng kịp thời, tránh khỏi tai nạn. Còn người đang lái xe, nhớ chuyện nhà, chuyện thiên hạ, miệng nói chuyện không ngừng, tâm loạn động, điều khiển tay lái lệch, có việc xảy ra không thấy, không thích ứng kịp, dễ xảy ra tai nạn. Người làm bếp không biết tu trong việc làm, tâm chạy đi hàng xóm, thay vì xắt gọt rau trái thì cắt vào tay chảy máu, hoặc quên để lửa cháy nhiều cơm khét… Quý vị hiện có mặt ở đây, hầu hết là giáo thọ dạy chúng. Khi dạy học, quý vị có tu được không? Và chúng nghe dạy có tu được không? Nếu là chúng, khi nghe giảng, lắng tâm nghe, biết rõ ràng từng lời từng câu của người dạy; vừa phóng tâm khởi niệm, liền biết không theo, tiếp tục nghe giảng nữa… Đó là người đem hết tinh thần để học, học như vậy mau hiểu mau nhớ. Còn người dạy nắm vững và thấu suốt ý nghĩa của bài giảng, khi giảng thì thong thả nói, nói rõ ràng, thấy rõ từng nét mặt chăm chú hay lơ đễnh của học trò, vừa phóng tâm khởi niệm, giảng sai liền biết; nên giảng đúng. Như vậy, dạy cũng chu đáo mà học cũng kết quả.
Pháp Biết vọng không theo, trong tất cả trường hợp chúng ta đều ứng dụng tu được. Từ lâu có sự hiểu nhầm cho rằng “nhìn biết vọng tưởng, không theo” đó là chánh, nhưng kỳ thật “theo dõi và biết rõ từng động tác” của mình trước, sau đó nếu có vọng tưởng khởi, liền biết, không theo. Cái Biết rõ từng động tác là thường hằng, là chánh, còn vọng tưởng lâu lâu khởi là phụ. Quý vị nhớ cho thật kỹ chỗ này, kẻo nhầm. Vì Biết rõ từng động tác mới gọi là rõ ràng thường biết (liễu liễu thường tri). Còn vọng tưởng thì khi duyên cảnh này khi duyên cảnh khác, nên khi có khi không; khi có, chúng ta phá nó bằng cách “biết nó là vọng tưởng, không theo”. Đó là pháp tu của chúng ta có quan hệ với đời sống con người và xã hội. Nghĩa là chúng ta tu, chẳng những thân tâm chúng ta được an ổn sáng suốt, mà việc làm còn chu đáo không sai sót, kết quả tốt, đem nhiều lợi ích cho xã hội.
Người đời đa số đều mắc chứng bệnh phóng tâm tức là lo ra, đang làm chuyện này nhớ chuyện kia, đang làm chuyện kia nhớ chuyện nọ. Nếu đang làm chuyện này mà nhớ chuyện kia, thì chuyện đang làm không chú ý, sẽ sai trật. Nên tu trong mọi hành động, làm việc gì biết rõ việc đó, vừa phóng tâm liền biết, dừng; vậy là làm cái gì cũng tu được. Việc làm được chu đáo, kết quả tốt, sống trong xã hội này, ở đâu và lúc nào, cũng tu.
Chính vì pháp tu này có hai điểm cần thiết. Một là hướng dẫn người đang tu chưa ngộ bản tâm, tiến dần.
Vì ở đây đa số chúng ta chưa ngộ, ứng dụng pháp này rất thông dụng. Hai là sống trong xã hội này ứng dụng pháp tu này rất thích hợp, trước là lợi ích thiết thực cho bản thân sau lợi ích cho gia đình và xã hội. Vì có lợi ích như thế nên tôi lấy làm trọng tâm và đặt vào hạng thứ nhất. Song, tôi thấy nếu chỉ có một lối tu này, e có những người ở những trường hợp khác ứng dụng không được sẽ lúng túng, nên tôi nêu lên pháp thứ hai là:
2- Đối cảnh không tâm
Đó là đứng trên quả mà nói. Vì khi tâm lặng lẽ như như thì mọi sự vật tốt xấu nên hư ở trước mắt chúng ta đều không dính mắc. Nếu tâm chưa như thì duyên cảnh nào cũng kẹt cũng dính. Ở đây chỉ nêu lên cái quả, mà không chỉ bày cái nhân tu thì làm sao thực hành? Chúng ta ứng dụng theo lời dạy của Lục Tổ là lấy “không trụ làm gốc” (vô trụ vi bổn), không trụ là không dính mắc. Tức là sáu căn tiếp xúc với sáu trần không kẹt không dính. Song, tiếp xúc như thế nào không dính? Ví dụ mắt nhìn cây liễu xanh lá rủ xuống, thấy đẹp, tâm ưa thích, đó là dính mắc. Bây giờ nhìn cây liễu ứng dụng pháp quán trong kinh Kim Cang: Cây liễu này do hạt giống, đất, nước, hơi, ấm, công người trồng… nên có cây liễu, cây liễu này do duyên sanh, tạm có, không thật. Thấy cây liễu như thế thì tâm không dính không kẹt.
Lối tu này được thiền sư Duy Tín đời Tống ở Trung Hoa ứng dụng cụ thể qua đời tu của ngài. Ngài nói: “Trước ba mươi năm, tôi thấy núi sông là núi sông. Gặp được thiện hữu tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông không phải là núi sông. Sau ba mươi năm, ngày nay tôi thấy núi sông là núi sông.” Qua lời nói của ngài, chúng ta thấy rất rõ pháp tu của ngài. Trước khi gặp thiện hữu tri thức, còn là phàm phu thấy cái gì cũng thật, thấy núi thật thấy sông thật. Khi gặp thiện hữu tri thức chỉ dạy, quán các pháp do duyên hợp huyễn có, không có tự thể cố định, núi cũng do duyên hợp tạm có, sông cũng do duyên hợp tạm có, núi sông chỉ là huyễn tướng, không thật. Quán suốt ba mươi năm như vậy mới thuần thục. Bây giờ thì không còn quán nữa, tâm lặng lẽ như như, thấy cái gì là cái nấy, tâm không dính không mắc. Đó là Đối cảnh không tâm.
Quý vị thấy pháp tu này ảnh hưởng cả đường lối tu của Lục Tổ và hướng tu của ngài Trúc Lâm Đầu-đà. Hồi xưa tôi có nói với quý vị: Nếu chúng ta tu Biết vọng không theo, cảm thấy hơi nặng đầu thì nên quán các pháp như huyễn hóa, như trò chơi, không bận tâm. Như vậy là dùng hai pháp tu hỗ tương nhau. Bây giờ nếu quý vị nương mũi để biết hơi thở ra vô, có niệm khởi liền biết, không theo, không đau đầu thì khỏi quán. Nếu người nào vì lý do không ứng dụng được pháp Biết vọng không theo thì ứng dụng pháp Đối cảnh không tâm cũng có kết quả tốt, cũng đi tới chỗ vô tâm. Pháp thứ ba là:
3- Không kẹt hai bên
Là không dính mắc hai pháp tương đối, như: có không, thiện ác, tốt xấu… Trong bài Tín Tâm Minh, tổ Tăng Xán có nói: “Tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm” nghĩa là tin tâm thì không thấy hai, không thấy hai mới là tin tâm. Quý vị đã tin tâm chưa? Ở đây tổ Tăng Xán nói nhẹ, ngài không nói ngộ, không nói kiến tánh, chỉ nói tin tâm thôi. Tâm mà ngài tin là tâm nào? Tâm không phân biệt, không thấy hai bên tương đối. Tâm phân biệt thấy hai bên tương đối là tâm loạn động, là vọng tưởng. Hiện tại đối với tâm bất nhị mà tổ Tăng Xán nói ở đây, tôi có niềm tin rất vững. Xưa khi Phật sắp Niết-bàn hỏi các thầy Tỳ-kheo đang có mặt:
- Đối với lý Tứ đế của ta, các ông có còn chỗ nào nghi ngờ hãy mau thưa hỏi.
Ngài Anuruddha đại diện chúng thưa:
- Mặt trời có thể lạnh, mặt trăng có thể nóng, giáo lý Tứ đế của Thế Tôn nói không thể nào đổi khác được.
Đó là lòng tin vững chắc của các vị Tỳ-kheo đối với lý Tứ thánh đế mà Phật đã dạy. Bây giờ, đối với tâm, tôi có thể nói: nước đá có thể nóng, lửa than có thể lạnh, tin tâm của tôi không thay đổi. Tôi tin tâm như vậy đó. Điều này quý vị cũng nên biết, tuy tôi tin tâm vững chắc như thế, nhưng lâu lâu vọng niệm cũng còn dấy khởi. Mỗi khi niệm khởi, tôi nói: “Hai bên.” Nếu nói hai bên mà niệm không lặng, thì tôi nói: “Nón tuyết giày hoa.” Nói như thế mà niệm vẫn chưa lặng, thì tôi nói: “Ôm cây đợi thỏ.” Tôi nói như vậy có ý nghĩa gì? Nghĩa là vừa dấy niệm, tôi liền biết là hai bên. Nếu là niệm nhẹ, nói “Hai bên” là nó lặng mất. Nếu là vọng niệm hơi thô, tuy đã biết nó là hai bên, nhưng nó vẫn còn, nên phải nói “Nón tuyết giày hoa” đó là lối nói theo Trúc Lâm Đầu-đà, nghĩa là đối đãi giả dối. Đã nói đối đãi giả dối mà nó còn, nên nói “Ôm cây đợi thỏ”. Quở là kẻ ngu.
Đó là tôi ứng dụng mấy câu kệ trong bài Hữu Cú
Vô Cú của Trúc Lâm Đầu-đà mà tôi tâm đắc. Hiện tại tôi tu như thế. Quý vị đừng nghĩ rằng tin tâm rồi là hết vọng niệm, là khỏi tu. Tôi vẫn còn tu, tu bằng cách tự nhắc như vậy đó, nhẹ nhàng lắm. Nếu không như thế, thì cổ đức đâu nói:
Đốn ngộ tuy đồng Phật,
Đa sanh tập khí thâm,
Phong đình ba thượng dũng,
Lý hiện niệm du xâm.
Nghĩa là đốn ngộ được tâm mình giống như tâm Phật, nhưng vì tập khí nhiều đời sâu dày cũng giống như gió đã dừng mà sóng vẫn chưa lặng. Tuy thể tánh đã hiển hiện mà vọng niệm vẫn còn lăn tăn. Hình ảnh này tôi thấy rất rõ nơi tôi. Như vậy, quý vị đừng cho rằng kiến tánh hay tin tâm mình là xong việc, rồi thả lỏng rong chơi hoài là họa, mà phải luôn dò chừng nó. Tu tới đây rồi thì ngồi thiền cũng tốt, mà đi ra ngoài cũng tốt, nhớ phải canh chừng nó, chớ để nó hiện hành. Tới đây chúng ta mới thấy ngài Trần Tôn Túc nói rất thấu đáo: “Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ, việc lớn đã sáng cũng như đưa ma mẹ.” Chưa nhận ra lý đạo, lúc nào cũng thao thức thiết tha tu hành cho đạo được sáng. Khi đã nhận ra lý đạo cũng vẫn phải nỗ lực tu hành cho đến khi viên mãn, chứ không thể buông thả, để cho tập khí huân làm mờ tối lại.
Đó là trường hợp niệm còn khởi, thì tu như thế, trường hợp niệm không khởi thì sao? Tôi trả lời rằng: Đã tin tâm, khi niệm không khởi, còn hỏi chi nữa! Đó là chỗ bí yếu. Như vậy, nếu niệm không khởi thì nhàn biết mấy, và nếu niệm còn khởi thì cũng phải xem chừng nhắc nhở nó. Người đã tin tâm như vậy, thì tu cách này tốt, nếu chưa tin tâm thì khoan ứng dụng, cách tu này hơi nhẹ, không có chỗ nương, khó thực hành. Đó là lối tu Không kẹt hai bên.
4- Hằng sống với cái thật không theo cái giả
Mới nghe qua chúng ta thấy mỗi pháp như giống nhau. Thật ra thì mỗi pháp có một vị trí của nó. Phàm ngôn ngữ nói ra không diễn tả hết lý nghĩa. Nói như vậy, chúng ta có cái thật và cái giả, lấy một cái, bỏ một cái. Đúng ra thì phải nói thế này: nhận cái chân thật làm bổn mạng của mình. Khi đã nhận cái chân thật làm bổn mạng, tức là hằng sống với cái chân thật. Tu đến chỗ này thiền sư Đại An nói như sau:
- Sở dĩ Đại An này ở tại núi Quy ba mươi năm. Ăn cơm núi Quy, đại tiện núi Quy, mà không học thiền núi Quy, chỉ coi chừng con trâu. Nếu có lạc đường hay vào trong cỏ, bèn lôi nó lại. Nếu nó ăn lúa mạ của người, liền đánh đập điều phục nó. Đáng thương đã lâu chịu người rầy rà, hiện giờ nó đổi thành con trâu trắng đứng trước mặt, trọn ngày hiện sờ sờ đuổi cũng chẳng đi.
Con trâu hiện sờ sờ đuổi không đi là chỉ cho cái chân thật hiện tiền. Khi cái chân thật hằng hiện tiền, thì tất cả cái giả không chi phối được. Tại sao ngài Đại An ở núi Quy, ăn cơm, đại tiện, tiểu tiện… đều ở đó hết mà không học thiền tại đó, chỉ chăn con trâu thôi? Chăn trâu tức là thiền còn dùng từ ngữ thiền chi cho thừa. Như vậy, chúng ta mới thấy người tu tới nơi rồi, hằng sống với cái chân thật (con trâu hiện sờ sờ, đuổi không đi) thì có cái hư giả nào làm nó dính mắc? Tới đây là chỗ triệt ngộ, tức là đã đạt đạo, nên ngoại cảnh hư giả không làm phiền lụy các ngài. Đây là chỗ cuối cùng, ít người đạt tới. Người mà tới chỗ này thì ít nói tới chuyện tu, vì nói tu với các ngài là thừa.
Vậy, bốn pháp tu tôi vừa nêu quý vị đã nắm vững chưa? Còn chỗ nào nghi ngờ hãy trình bày, để tôi giản trạch cho hiểu. Vì tu là cả một công trình mấy mươi năm, cả đời người, nếu chúng ta thực hành sai, kết quả xấu thì uổng cả đời tu, không lợi ích. Thế nên quý vị phải hiểu cho rõ, nắm cho vững, ứng dụng đúng, kết quả tốt, hướng dẫn cho người sau tu tập được lợi ích.
II- Cốt tủy kinh điển
Từ lâu, có nhiều người nói pháp tu của Thiền tông rất cao siêu, nên gọi là Tối thượng thừa. Chỉ có người căn cơ bậc thượng mới có thể tu được, còn người căn cơ bậc trung bậc hạ không thể vói tới. Nếu Thiền tông chỉ dành cho người căn cơ bậc thượng, thì hiện giờ có mấy người bậc thượng? Có ai tự thấy căn cơ của mình bậc thượng không? Không ai là người căn cơ bậc thượng cả, chỉ có trung căn với hạ căn thôi. Nếu chỉ có người trung căn và hạ căn thì ai tu theo Thiền tông? Như vậy tôi đề xướng tu theo Thiền tông, mà không có người ngang trình độ để tu, thì sự đề xướng của tôi chỉ là những lời nói trong hư không thôi, không có người hưởng ứng. Vậy, tại sao quý vị dám tu theo Thiền tông?
Hai pháp tu mà tôi thường đề cập là Biết vọng không theo và Đối cảnh không tâm đều có quan hệ với giáo điển. Ứng dụng pháp Biết vọng không theo chúng ta tạm nương hơi thở để thấy vọng tưởng. Nương hơi thở để dẹp vọng niệm trong kinh Nguyên thủy Phật dạy quá rõ ràng, đó là giáo; còn Biết vọng tưởng không theo là thiền. Pháp Đối cảnh không tâm đó là đứng trên quả mà nói. Nếu tu nhân là phải ứng dụng giáo lý kinh Kim Cang, quán các pháp như huyễn không có tự thể cố định là giáo. Khi thấy các pháp như huyễn không có tự thể cố định, thì sáu căn đối với sáu trần không chạy theo không dính mắc là thiền. Đó cũng là thiền giáo song hành. Còn pháp Không kẹt hai bên thì tất cả kinh, từ Nguyên thủy đến kinh Đại thừa đều không thừa nhận cái thấy hai bên; chấp có chấp không đều là bệnh. Khi không còn thấy hai bên thì tâm chân thật hiển hiện tròn sáng tức là tín tâm. Không chấp hai bên là giáo, tâm chân thật hiển hiện hay tín tâm là thiền. Đây cũng là thiền giáo song hành. Vì vậy mà chúng ta học giáo để rõ thiền và nhờ thiền để thấy được giá trị của giáo điển.
Tôi nhắc lại, nếu cho rằng người thượng căn mới tu thiền được, còn người trung căn và hạ căn thì tu không được! Nói như vậy quý vị chấp nhận không? Bây giờ tôi nói quả quyết rằng: Người thượng căn, trung căn hay hạ căn đều tu thiền được. Tại sao? Vì với con mắt của nhà thiền thấy ai cũng có sẵn bản lai diện mục (Phật tánh), tại sao chỉ người thượng căn mới tu được, còn người trung căn và hạ căn vô phần? Điều này quý vị nên nghiệm xét kỹ. Tôi ví dụ có một gia đình cha mẹ giàu sang có nhiều đứa con còn thơ dại. Cha mẹ muốn chia của cho các con, ngại đưa sớm nó xài bậy, nên chia của quý ra từng phần và vô hũ chôn mỗi chỗ cho mỗi đứa, trên mỗi tủ có đổ bê-tông thật kín. Cha mẹ già gần chết kêu con lại dặn: Thằng A, ba má cho con một hũ vàng chôn ở dưới chân bàn. Thằng B một hũ chôn dưới chân tủ… Khi ba má chết các con hãy lại ngay đó đào lấy hũ vàng lên mà xài. Nhớ là hũ vàng được chôn sâu, trên có đổ bê-tông cứng chắc phải khéo đào mới lấy được. Nghe cha mẹ chỉ dạy như vậy, những người con cần mẫn bền chí cố gắng đào, cuối cùng họ lấy được hũ vàng. Còn những người con lười nhác bới xới gặp bê-tông cứng họ cảm thấy quá nhọc nhằn, chán không đào nữa, nên không lấy được hũ vàng.
Mỗi người con ai cũng được cha mẹ cho một hũ vàng chôn dưới đất, người siêng năng bền chí thì đào lấy được hũ vàng, còn người lười nhác thì không được. Cũng vậy, trong nhà thiền thường nhắc người dụng công tu hai điều: một là phát tâm kiên cố, hai là phát tâm trường viễn. Nếu đã phát tâm kiên cố và trường viễn thì ai tu cũng được hết. Chỉ có người lơ là nay tu mai nghỉ, muốn tu làm sao trong vòng năm bảy tháng là xong! Những người này không bao giờ được đạo.
Như vậy thì ai là người thượng căn, ai là người hạ căn? Chỉ có biết mình rồi siêng năng bền bỉ thực hành, không thối chuyển thì đạt đạo. Tất cả mọi người ai cũng có của báu, mà người nhận được và người không nhận được là do người siêng năng bền chí thực hành và người lười nhác không chịu tu. Không ai là không làm được. Như vậy, tu thiền không phải là chuyện khó mà cũng không phải là chuyện dễ. Nếu cái không có, bắt phải tìm cho có, mới là khó. Bản lai diện mục (Phật tánh) ai cũng có sẵn, chẳng phải đi tìm kiếm ở đâu nên không khó, chỉ siêng năng bền bỉ thực hành là kết quả tốt. Vậy thì đừng ai mặc cảm rằng mình hạ căn, trung căn tu thiền không được.
Tôi nói như thế có nghịch với người xưa không? Tổ Huệ Khả tới cầu đạo nơi tổ Bồ-đề-đạt-ma, dám chặt một cánh tay để nói lên ý chí thiết tha cầu đạo của ngài. Tổ Huệ Khả thuộc căn cơ bậc thượng hay bậc hạ mà tu pháp biết vọng? Tất cả quý vị ở đây nghe tôi giảng mấy năm nay đều biết mình vốn có bản tâm thanh tịnh sáng suốt mà không chịu tin. Biết có mà không dám tin; nếu có tin cũng không dám tin lâu dài, chỉ tin trong giai đoạn thôi. Thành ra tu không tới đâu hết. Như vậy, việc tu hành chúng ta cần phải có đủ những yếu tố mà tôi vừa nêu thì chúng ta sẽ đạt được kết quả tốt, chứ không phải người này tu được người kia tu không được.
Phần cuối cùng là tôi nhắc tất cả quý vị có mặt ở đây: Chúng ta có trách nhiệm rất là nặng, nhất là những vị ở Thường Chiếu. Trong quyển Thiền Tông Việt Nam cuối thế kỷ XX tôi có giới thiệu đường lối tu của Tu viện Chơn Không. Bây giờ thì Chơn Không qua rồi, Thường Chiếu thì đang hiện hữu, quý vị là người chịu trách nhiệm lãnh đạo, giảng dạy. Mọi người muốn tìm hiểu Thiền tông, tu theo Thiền tông thì họ sẽ tìm tới Thường Chiếu, còn Viên Chiếu và Linh Chiếu thì phụ. Trách nhiệm của quý vị rất là nặng vì đã ra mặt với thiên hạ, tự nhận mình tu theo Thiền tông, hướng dẫn người tu theo Thiền tông, mà quý vị tu không ra trò trống gì hết, trong Thiền viện toàn là những chú tiểu nhóc nhóc, thì nguy làm sao! Vì vậy, quý vị phải tận lực đào bới cho được “kho báu” của mình, để người tới mình cho, chẳng lẽ nhận mình là con trưởng giả mà không có của cải để bố thí cho người sao? Như vậy mới xứng đáng với danh xưng mà mình đã có. Đó là điều rất thiết yếu.
Tôi mong rằng quý vị có trách nhiệm lãnh đạo phải thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, vừa nỗ lực tu, vừa hướng dẫn huynh đệ tu đúng đường lối, tiến từng bước vững vàng. Nhớ tiến chứ không được dừng, vì dừng lâu sẽ lùi, là điều không thể chấp nhận. Được như vậy, mới làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình. Tôi đã hướng dẫn cho quý vị tu hành có đường lối rõ ràng và giới thiệu quý vị với quần chúng, mà quý vị không làm tròn bổn phận và trách nhiệm, thì đó là lỗi của quý vị và là cái lỗi rất lớn. Vì tất cả các Thiền viện tôi đã hướng dẫn tu có đường lối hẳn hoi, cơ sở thì cũng đầy đủ, chúng đông đảo. Đã có đủ ba điều kiện: chúng tăng, cơ sở và đường lối tu, bây giờ chỉ còn một việc là phải tu cho sáng đạo. Người tu phải sáng đạo. Người đến Thiền viện hỏi xin là hỏi xin đạo, chứ đâu có xin cái gì khác. Nếu người đến Thiền viện, trụ trì khoe tôi có cả trăm chúng, cơ sở rất quy mô vững vàng… mà đạo thì không sáng, đó chỉ là cái rỗng. Bởi vậy, tôi mong tất cả quý vị hiện có mặt hôm nay phải ý thức điều đó để làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình. Điều mà tôi thiết tha mong mỏi nơi quý vị.
Các bài mới
- Thiền tông với các môn thiền khác - 03/01/2017
- Thiền tông với các Kinh điển đại thừa - 01/10/2016
- Đức Phật qua cái nhìn của Thiền tông - 01/09/2016
- Yếu chỉ của Thiền tông - 01/08/2016
- Cội nguồn thiền tông - 27/07/2016
Các bài đã đăng
- Thiền tông Việt Nam cuối TK20 - 26/07/2016
- Thiền không nặng hình thức tôn giáo - 08/02/2009
- Đặc điểm của Thiền tông - 07/02/2009
- Những bệnh của người tu thiền - 03/02/2009
Thiền tông
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 35415
- Online: 51
